Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiệngiúp đạt được Giác Ngộ là Trí Tuệ, và đối nghịch với Trí Tuệ là Vô Minh. Vậymuốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh. Vô Minh mang lại khổ đau và Giácngộ thì mang lại sự Giải Thoát. Trí Tuệ là liều thuốc để hóa giải Vô Minh tức đểloại bỏ khổ đau. Chính vì thế mà vô minh là một khái niệm vô cùng quan trọng tronggiáo lý nhà Phật bởi lẽ nếu không hiểuđược vô minh là gì thì quả thật là khó mà loại bỏ được nó. Vô minh được kinhsách đề cập trong ba trường hợp khác nhau:

– Vô minh là nọc độc thứnhất trong số ba nọc độc gọi là TamĐộc: đấy là sự đần độn hay u mê (moha – si mê); sự thèm khát và bám víu (raga – tham lam) và hận thù (krodha – sânhận). U mê (moha – ignorance – si mê) sẽ đưa đến những hành động ngu đần vàsai lầm, mang lại những xúc cảm bấn loạn trong tâm thức.

– Vô minh(avidya/avijja) là “nút thắt” hay cái “khoen” đầu tiêntrong số mười hai “nút thắt” của chuỗi dài lôi kéo và tương tác gọilà “Thập nhị nhân duyên”, trói buộc chúng sinh trong thế giới luânhồi. Cái nút thắt đầu tiên ấy còn được gọi là vô minh nguyên thủy(sahajavidya), tức sự kiện không hiểu biết về Tứ Diệu Đế, về quy luật nguyênnhân hậu quả (nghiệp) và không ý thức được sự hiện hữu trói buộc của chínhmình.

Đang xem: Khái niệm vô minh là gì mà có khả năng mãnh liệt như thế? theo thượng

– Vô minh mangý nghĩa của sự lầm lẫn, thiếu sáng suốt (ditthi, wrong views – tà kiến) nghĩa là không nhìn thấy bảnchất của mọi vật thể, tức phương thức hiện hữu đích thật của con người và mọihiện tượng.

Xem thêm: Kinh Nghiệm Chống Vắt Là Con Gì Sống Ở Đâu Cắn Có Nguy Hiểm Không

Kinh sách, bài giảng, bài viết… về khái niệm vôminh nhiều vô kể, do đó bài viết ngắn này chỉ nhằm nhắc lại một vài định nghĩachủ yếu và chỉ khai triển thể dạng thứ ba của vô minh tức là sự lầm lẫn và u mêvề bản chất của mọi vật thể, đồng thời nêu lên một vài thí dụ cụ thể để chúngta cùng suy ngẫm. Từ “vô minh” nói chung thì tiếng Phạn gọi là Avidya và tiếngPa-li là Avijja, nghĩa từ chương của chữ này là sự “thiếu hiểu biết”,thế nhưng cũng có thể hiểu đấy là một sự “nhầm lẫn”. “Thiếu hiểubiết” không có nghĩa là thiếu sự hiểu biết mang lại từ sự học hỏi từchương trong sách vở, hay sự thiếu hiểu biết mang tính cách thông thái của mộtnhà bác học. Nói một cách đơn giản thì ta có thể hiểu vô minh như là một cách”nhìn sai” hay “hiểu sai”. Đối với Phật Giáo thì một họcgiả uyên bác, một triết gia thông thái, một khoa học gia lỗi lạc hay một chínhtrị gia khôn ngoan v.v… vẫn có thể là những người “vô minh” và”u mê”, vì tuy rằng họ hiểu rành rọt về chuyện này thế nhưng cũng cóthể nhìn sai và hiểu sai về một chuyện khác. Không những thế, cái chuyện khácấy đôi khi lại có một tầm vóc quan trọng hơn nhiều so với những chuyện mà họbiết thật rành rẽ, bởi vì nó có thể liên hệ đến hạnh phúc và tương lai lâu dàicủa họ và của cả những người khác nữa.

Tóm lại dù đấy là một vị giáo sư haychỉ là một người không có cái may mắn được học hành thì cả hai cũng đều có thểrơi vào sự lầm lẫn như nhau. Nếu sự lầm lẫn ấy chỉ liên hệ đến những biến cố vàsự kiện thường tình trong đời sống thì hậu quả mang lại đôi khi cũng không đếnđỗi quá tệ hại. Thế nhưng nếu đấy là một cái nhìn lầm lẫn, một sự quán thấy lệchlạc, không nhận biết được bản chất đích thật của chính mình và của mọi sự vật,không quán thấy được ảo giác của mọi hiện tượng đang biến động chung quanh mìnhvà những xung năng trong tâm thức mình, thì hậu quả mang lại sẽ trầm trọng hơnnhiều.

Xem thêm: Vuejs Là Gì ? Những Điểm Đặc Biệt Trong Framework Vuejs 3 Phút Làm Quen Với Vue

Sự phức tạp của vô minhvà sự đa dạng của việc tu tập

Như vậy nếu muốn phá bỏ hay “khắcphục vô minh” để mở rộng sự hiểu biết và tìm thấy trí tuệ thì phải làm thế nào? Việc tu tập quả thật làrắc rối. Con người có quá nhiều xu hướng khác nhau, từ bản chất cơ thể cho đếngiáo dục, từ truyền thống cho đến kinh nghiệm cá nhân, từ hoàn cảnh cho đếnnhững định hướng tư lợi, mà tất cả những thứ ấy đều là hậu quả của nghiệp tíchlũy từ trước. Quả thật hết sức khó để có thể tìm ra một phương thức chung cótính cách phổ cập, thích ứng cho tất cả mọi người. Vì thế cũng không nên lấylàm lạ là chung quanh ta “mỗi người tu một cách”, các tông phái, chiphái thì “nhiều vô kể”, và sách giảng thì cũng đủ loại. Thật ra thìđấy là các phương cách khác nhau mà Đạo Pháp dùng để thích ứng với sự đa dạngcủa chúng sinh, hay nói một cách giản dị là để thích ứng với cái vô minh và cáingã của từng người mà thôi.

Giáo lý nhà Phật cũng không phải làkhông ý thức được việc đó, vì thế mà Đạo Pháp xem đấy đều là những “phươngtiện thiện xảo” (upaya) “chấp nhận” cho mỗi người tự tìm lấy một”con đường” thích hợp cho mình, và tất nhiên là cũng phải tôn trọng mộtsố nguyên tắc căn bản nào đó trong Đạo Pháp. Kinh sách cho biết là có tất cả84.000 “phương tiện thiện xảo”, và theo truyền thống văn hóa Ấn độthì con số này chỉ mang tính cách tượng trưng, có nghĩa là các phương tiện thiệnxảo nhiều lắm, đếm không xuể. Vô minh cũng thế, cũng nhiều lắm và đếm không xuể.Mỗi người có một cái vô minh riêng của mình, cũng có thể xem như một thứ “giatài” riêng, “bị” thừa hưởng từ nghiệp của mình mà ai cũng muốn bảovệ cái “gia tài” ấy, “bám chặt” vào nó, “hãnhdiện” vì nó, “ôm khư khư” lấy nó. Vì thế việc tu tập tất nhiên cũngphải phù hợp với cái vô minh của từng người là như vậy.

Chúng ta hãy thử nhìn vào một thídụ thực tiễn và cụ thể như sau. Một vị thầy thuyết giảng giáo lý cho một đámđông Phật tử đến chùa. Phật tử ngồi lắng nghe thật yên lặng và thành tâm, vị thầythì thuyết giảng rất hăng say và cũng rất thành tâm, có lúc hùng hồn, có lúc khôihài, có khi lại rất trịnh trọng và nghiêm trang, nhằm thu hút sự chú tâm của ngườinghe. Thế nhưng biết đâu vị thầy cũng chỉ lập đi lập lại những gì mình đã thuộclòng (!). Trong số Phật tử thì chắc hẳn cũng có người nghe và nghĩ thầm là “lanhquanh cũng thế, chẳng có gì mới lạ”, hoặc nghĩ rằng vị thầy này giảngkhông “hấp dẫn” bằng vị hôm trước. Trong khi đó thì cũng lại có kẻ đangnghĩ đến việc sắp phải rước con vì sắp đến giờ tan học, mà vị thầy này lại giảnghăng quá mà chẳng biết đến khi nào mới chấm dứt, người khác thì hơi sốt ruột vìcòn phải lo việc chợ búa và trăm chuyện phải làm, v.v. và v.v… Rồi thì buổigiảng cũng chấm dứt, thầy trò đều mừng rỡ, cùng nhau chắp tay hồi hướng côngđức để cầu xin cho thế giới này được an bình hơn, hạnh phúc hơn… Các Phật tử rađến cổng thì vừa chen lấn vừa áp tay vào túi quần vì sợ bị… móc túi, người ănxin thì quá đông nên chẳng biết phải bố thí cho người nào, xe chạy như mắc cửi,phải nhìn trước trông sau để tránh xe… Trong chùa thì vị thầy vừa giảng xongcũng muốn nghỉ ngơi một tí, vì chiều nay lại phải giảng về đề tài này tại mộtngôi chùa khác. Mỗi người trở lại với những sinh hoạt thường nhật của mình vàcũng có thể không ai nghĩ đến là sau khi nghe giảng thì mình có cải thiện đượcphần nào cái vốn liếng trí tuệ của mình hay không?

Vô minh quả thật là phức tạp và đa dạng, do đó việc tu tập nếu muốn thựcsự “hữu hiệu” thì cũng đành phải chạy theo sự đa dạng và phức tạp đó.Thế nhưng may mắn thay cứu cánh của Đạo Pháp thì lúc nào cũng chỉ là một: đấylà Trí Tuệ. Dù phải vướng mắc trong bối cảnh hỗn tạp do nghiệp và cơ duyên tạora, thế nhưng ta cũng nên luôn cố gắng nhìn xa hơn và sâu hơn trước những biếncố quen thuộc đang xảy ra chung quanh.

Sự chú tâm để quán thấy những thứấy càng mạnh, càng thường xuyên và sâu xa, thì trí tuệ của ta cũng theo đó mà ngàycàng được phát triển hơn. Tóm lại đấy là cách giúp ta thoát ra những trói buộcthường tình để nhìn xa hơn vào các hiện tượng đang biến động chung quanh và để thấyrõ hơn các xúc cảm và xung năng đang chi phối tâm thức mình hầu giúp mình quánxét, phân tích và tìm hiểu chúng để khám phá ra bản chất đích thật của chúng, nhằmgiúp cho mình chọn lấy một thái độ ứng xử thích nghi hơn.

Cách nhìn vào các hiệntượng biến động và bản chất của hiện thực

Cách nhìn như vừa mô tả trên đây gồmcó hai khía cạnh hay hai lãnh vực khác nhau: trước hết là cách nhìn vào nhữnghiện tượng đang biến động tức các thể dạng “bên ngoài” hay “ảogiác” của hiện thực, và sau đó là cách nhìn thẳng vào “bản chất đíchthật” của hiện thực. Thật ra thì cả hai khía cạnh hay lãnh vực ấy của hiệnthực đã được mô tả trong vô số kinh sách và cũng đã được các vị thầy đại diệncho Đạo Pháp thuyết giảng cho chúng ta nghe, thế nhưng chính ta phải tự nhìnthấy nó vì không ai có thể nhìn thấy chúng thay cho ta được. Hai cách nhìn ấynhư sau:

– Nhìn vào cáchiện tượng biến động của hiện thực

Ta hãy thử tréo chân ngồi xuống, giữ yên lặng và phóng luồng tư tưởng nhìnra vũ trụ, để hình dung ra địa cầu đang xoay vần chung quanh mặt trời, rồi mặttrời và thái dương hệ thì đang quay cuồng trong thiên hà, và thiên hà lại bắntung trong vũ trụ… Toàn bộ tất cả những thứ ấy đang chuyển động với một vậntốc khủng khiếp, đấy là cái vận tốc của một vụ nổ lớn trong vũ trụ (Big Bang). Cùngvới địa cầu và thiên hà, ta đang bị bắn tung trong không gian… Thế nhưng trướcđây vài phút, lúc ta chưa ngồi xuống để hình dung ra vị trí của mình trong cáikhoảng không gian mênh mông đó thì ta vẫn có cảm giác bình yên tự tại, vẫn cảmthấy vững chân trên mặt đất và dường như chẳng có việc gì xảy ra: trên đầu talà bầu trời cao vời vợi với những đám mây trôi êm ả, dưới chân ta là mặt đấtvững vàng, và căn nhà của ta được đóng cừ và xây móng chắc chắn. Tóm lại việcta cứ “bình chân như vại” mà không quán thấy cái chuyển động khủngkhiếp đấy là một thứ vô minh rất dễ nhận ra, thế nhưng chỉ vì cứ phải chạyngược chạy xuôi cho nên ta không nhận thấy cái vô minh đó của mình mà thôi!

Địa cầu là một hạt cực nhỏ xoáylộn trong không gian, thế mà ta vẫn cố ngước lên để tìm một cái gì cao cả, và nhìnxuống để ý thức ra sự đọa đày. Ta tự đặt mình vào vị trí trung tâm của vũ trụđể tự nhận diện chính mình. Các vị trí dùng để định hướng như trung tâm, bênphải, bên trái, bên trên, bên dưới… không hề mang một ý nghĩa gì cả, đấy chỉlà những điểm chuẩn hoàn toàn mang tính cách tương đối và quy ước. Thế nhưng đốivới ta đã gọi là “trên trời” thì nhất định là phải ở trên đỉnh đầu,ta không thể chấp nhận “trên trời” lại cũng có thể là ở… “dướichân” ta. Một người ở bắc bán cầu thì “trên trời” sẽ có mộthướng đối nghịch lại với cái hướng “trên trời”của một người ở nam báncầu. Ta ngước “lên trên” để tìm kiếm một đấng tối cao, một chốn thiênđường hạnh phúc hay một cõi cực lạc an bình, bất chấp là cái hạt bé tí gọi làđịa cầu đó đang bị xoáy lộn “lên phía trên” hay bị tung “xuốngphía dưới” trong vũ trụ này. Đấy là một trong số hàng nghìn cách nhìn giúpcho ta nhận thấy cái vô minh của mình trước những biến động chung quanh.

Nếu tiếp tục thu hẹp tầm nhìn để quaytrở lại với những gì đang xảy ra chung quanh ta trong giới hạn của quả địa cầunày thì ta cũng sẽ thấy rằng mọi vật thể và hiện tượng nơi cái hành tinh bé nhỏnày cũng biến động không ngừng, từ con người đến vạn vật, từ văn hóa đến chínhtrị, từ địa dư đến lịch sử và từ những biến cố cổ xưa đến cận đại. Có những khimùa màng mưa thuận gió hòa thì cũng có những lần mà thiên tai sát hại hàng trămnghìn người một lúc. Có những đứa bé sinh ra đời thì lại có những người nằmxuống, và trong số những người nằm xuống thì cũng có những đứa bé còn bú mẹ, cónhững người già nua đau yếu, và cả những người còn trẻ và khoẻ mạnh… Tất cảnhững hiện tượng ấy trên bình diện “bên ngoài” hiện ra như có vẻ độclập, được xác định rõ rệt. Thế nhưng nếu ta hiểu rằng một cơn sóng thần giếthại hơn hai trăm nghìn người phải bắt nguồn từ một cuộc địa chấn. Động đất xảyra là phải có các mảng lục địa trôi dạt trên lớp đá nóng bỏng và chảy lỏng nằm bêntrong lớp vỏ của địa cầu, các mảng lục địa va chạm vào nhau, chồm lên nhau, bịdồn nén, bị “gẫy” để tạo ra động đất. Sở dĩ ta không nhận thấy nhữngchuyển động đó là vì chúng xảy ra quá chậm trong khi cuộc sống của ta thì lạiquá dồn dập, xảy ra và chấm dứt như một tia chớp. Ngược về quá khứ xa hơn, ta sẽthấy rằng những biến cố động đất và sóng thần liên hệ đến địa cầu từ lúc hànhtinh này còn là một khối lửa đang nguội dần, có những mảng lục địa đang hình thànhvà đá lỏng vẫn chưa nguội hẳn…

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *