Như vậy tùy duyên mà thường sáng tỏ không có mê, không có mờ, tùy duyên mà không đặt thành một “cái ta” trong đó. Đó là điều quan trọng, còn tùy duyên mà có cái ta trong đó thì không phải tùy duyên.
Phật dạy về nghiệp báo sai biệt của mỗi người
Về ý nghĩa tùy duyên, thì đây là một chỗ sống, không phải là chỗ lý luận hay chỗ bắt chước, bởi vì khi chúng ta bắt chước thì nó không còn là tùy duyên nữa, bởi khi bắt chước là nó có cái khuôn rồi.
Đang xem: Sống với hai chữ ' tùy duyên là gì, hiểu Đúng về 2 chữ: ”tùy duyên”
Khi tâm mình còn phân biệt nặng nề, còn thích ngon chán dở, còn thích đẹp chán xấu mà bảo là tùy duyên không ngại gì thì coi chừng bệnh hoạn, phải hiểu được cái ý đó. Như vậy một ý nghĩa tùy duyên này mà thấu cho thật suốt có dễ dàng không? Không dễ dàng, cho nên phải thật sống chớ không phải bắt chước được.
Về ý nghĩa tùy duyên, thì đây là một chỗ sống, không phải là chỗ lý luận hay chỗ bắt chước, bởi vì khi chúng ta bắt chước thì nó không còn là tùy duyên nữa, bởi khi bắt chước là nó có cái khuôn rồi. Cho nên ý nghĩa này rất quan trọng mà lâu nay nhiều người lại hiểu lầm rồi cũng dễ lạm dụng nó nữa.
Như vậy muốn tùy duyên thì thế nào là biết tùy duyên cho đúng ý nghĩa?
1. Thứ nhất là phải thấy đúng lý mới tùy duyên được, còn chưa thấy đúng lý mà nói tùy duyên thì chỉ là lạm dụng, là hiểu lầm vậy thôi. Nghe nói tùy duyên, rồi mặc tình buông thả theo duyên thì tùy duyên kiểu đó là chạy theo cảnh chớ không phải tùy duyên, đó là bị duyên nó cuốn, nó lôi đi. Tùy duyên theo kiểu đó gọi là “tùy duyên tiêu sự nghiệp”, tiêu tansự nghiệp hết, rất nguy hiểm!
Cho nên muốn sống, muốn thấy được đúng ý nghĩa tùy duyên thì phải thấy đúng lý. Trong cái thấy đúng lý này, thứ nhất là cần rõ lý Tánh không của Bát-nhã.
Tánh không là sao? Bát-nhã dạy tất cả các pháp trên đời này “không có một pháp gì là thật cố định”, nghĩa là từbản thân của mình cho đến sự vật bên ngoài đều là duyên khởi. Duyên khởi tạm có cho nên gọi là Tánh không, là không có tánh cố định, không có Thể thật của nó. Chính vì Tánh không mới tùy duyên mà hiện khởi tất cả được, chớ nó cố định thì đâu còn tùy duyên. Ví dụ cố định là một khối cứng thì đâu thể tùy duyên mà biến thành các vật khác được.
Cũng giống như cái gương, nó không có một hình gì trong đó, cho nên nó có thể hiện đủ tất cả mọi hình bóng, nếu nó có một cái hình gì cố định bên trong, thí dụ hình tròn, thì nó không thể hiện được hình vuông, mà vuông tròn đẹp xấu gì cũng hiện được hết, là vì nó không có một cái gì trong đó, không cố định là cái gì.
Tâm của mình. Tâm mình không là một cái gì hết, cho nên nó mới nghĩ được đủ tất cả, nếu nó cố định là một cái gì rồi, chắc chắn nó không thể nghĩ tất cả được.
Bất mãn nhưng phải tùy duyên
Hoặc như hư không, hư không không phải là cái gì hết, cho nên nó cũng hiện được đủ mọi thứ. Rồi gần nhất là cái gì? Tâm của mình. Tâm mình không là một cái gì hết, cho nên nó mới nghĩ được đủ tất cả, nếu nó cố định là một cái gì rồi, chắc chắn nó không thể nghĩ tất cả được. Mà nó nghĩ đủ hết, cái gì nó cũng nghĩ tới, kể cả những cái gọi là không có, nó cũng nghĩ ra được nữa bởi vì nó không có gì hết.
Qua điểm nữa là, ngay thân mình là thân năm uẩn thì Tâm kinh Bát-nhã nói “ngũ uẩn giai không”, năm uẩn đều Tánh không, không thật, cho nên nó mới tùy duyên hiện được lớn được nhỏ, được tốt được xấu, mập ốm vui buồn, trời người nó cũng hiện được đủ hết, chính vì nó Tánh không, không cố định là gì.
Nếu nó cố định, thí dụ năm uẩn này cố định là người rồi, tức nhiên nó không thể hiện thành trời được, cũng như nó cố định là mập rồi thì không thể hiện ốm được. Do nó không cố định gì, nên nó hiện được tất cả. Bởi vậy Bồ-tát Quán Thế Âm có ba mươi hai Ứng thân, có khi hiện nam hiện nữ, rồi hiện Tỳ-kheo, hiện Tỳ-kheo ni, hiện vua hiện quan, hiện đủ hết, làm sao hiện được như vậy?
Do đó xét cho kỹ, rõ ràng không có một cái gì cố định, vậy thì mình bám chặt một chỗ, một cái làm gì để chịu khổ? Như vậy cho thấy, hiểu được tùy duyên thì phải thấy lý Tánh không. Rõ được Tánh không của các pháp rồi thì tùy duyên, lúc đó luôn luôn có ánh sáng Bát-nhã đi theo, nên tùy duyên mà không có lầm lẫn. Còn nhắm mắt tùy duyênlà đi xuốnghố, mình phải thấy rõ cái ý nghĩa đó, thí dụ như người mù nhắm mắt đi bừa là phải lọt hố thôi.
Nhớ lại câu chuyện của ngài Tăng Triệu khi bị án tử hình, Ngài xin phép hoãn lại bảy bữa để viết cho xong bộ LuậnBảo Tạng rồi Ngài sẽ chết. Thử hỏi tới lúc đó còn tâm hồn gì ngồi để mà viết luận! Nhưng mà Ngài thấy chuyện đó như là chuyện chơi thôi, và đến trước khi chết Ngài còn đọc bài kệ :
Ngũ ấm nguyên phi hữu
Tứ đại bản lai không
Tương đầu lâm bạch nhẫn
Nhất tự trảm xuân phong.
Tức là:
Năm ấm nguyên chẳng có
Bốn đại xưa nay không
Đem đầu đến dao bén
Giống hệt chém gió xuân.
Có ai bị chém bị chết trong đó đâu? Cho nên Ngài thản nhiên coi như không có chuyện gì. Nếu mình thì lúc đó rụng rời tay chân, còn tâm hồn đâu mà ngồi viết sách, huống nữa là tới khi sắp chết còn nói kệ nữa! Như vậy đó mới thật sự là biết tùy duyên. Và tùy duyên kiểu đó dễ bắt chước không?
Bởi vì Ngài thấy rõ năm uẩn bốn đại đều là không, đều là vô ngã hết, không có cái ta thật, thì trong đó cái gì chết, cái gì bị chém? Không thấy có cái gì bị chém thì đâu có gì mà khổ? Còn mình vì thấy có “cái ta” bị chém bị chết, cho nên mới có khổ.
Do Ngài thấy rõ không có gì thật hết, bởi vậy hễ còn duyên thì làm Phật sự tiếp, hết duyên thì thôi ra đi, chớ không cố ghì lại một chỗ để chịu khổ. Còn mình vì thấy có cái ta trong đó cho nên cố ghì lại để sống, ghì không được thì phải kiếm cái ta mới ráp vào, chính cái ta mới đó lại đi trong sanh tử. Hiểu như vậy, thấy được cái lý như vậy thìmới khéo biết tùy duyên. Đó là điểm thứ nhất là phải thấy rõ được Tánh không.
2. Thứ hai, tiến bước nữa là nhận ra Bản tánh chân thật của mình, nghĩa là thấy được, nhận rõ được Bản tánhchân thật luôn luôn hiện hữu nơi mình, cho nên mình tùy duyên là để chi? Tùy duyên là để sống trở về Bản tánhchân thật đó chớ không sanh những niệm, những tâm hoặc lấy hoặc bỏ, chỉ thuận với tánh để sống, làm sao không để mất nó, đó là chỗ sống của mình rồi.
Chỗ này là phải sống, biết rõ mình có cái chân thật rồi thì sống tùy duyên, duyên đến thì tiếp, duyên qua thì thôi, không có cố chấp, không có mong cầu thêm nữa.
Như bài kệ của vua Trần Nhân Tông, nhiều người nghe quen quá thành ra xem thường:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.
Xem thêm: Stop Word Là Gì Và Mọi Thứ Bạn Nên Biết Về Stop Words, Tầm Quan Trọng Stopwords Trong Content Seo
Nghĩa là sao? Nghĩa là ở đây nhận ra Bản tánh chân thật của mình hay của báu sẵn có trong mình rồi, thì khỏi cần phải chạy, phải tìm kiếm đeo đuổi cái gì bên ngoài nữa, nghĩa là không để cho cảnh nó lôi mình, nó làm mất mình. Như vậy mình sống ngay trong lòng đời này, ở giữa thế gian này mà vẫn vui với đạo, đó là biết tùy duyên, mà tùy duyên như vậy là để làm chi? Là để sống với Bản tánh của mình, sống trở về với Bản tánh chân thật, ngoài rakhông có gì quan trọng. Đó gọi là tùy duyên sống với Bản tánh, tiêu nghiệp cũ mà không tạo thêm nghiệp mới.
Như vậy tùy duyên mà thường sáng tỏ không có mê, không có mờ, tùy duyên mà không đặt thành một “cái ta” trong đó. Đó là điều quan trọng, còn tùy duyên mà có cái ta trong đó thì không phải tùy duyên. Cũng như ở đây “đói đến thì ăn, mệt ngủ liền” nhưng nếu còn có cái ý niệm là đói nên ăn hay không nên ăn thì sao? Đó là chen cái ta vào trong đó, tức là cái gì nên ăn hay không nên ăn? Đó là hết tùy duyên. Cho nên tùy duyên ở đây là thuận theo Tự tánh để sống trên đời, để cho nó luôn luôn được hiện hữu khắp nơi, đó mới là tùy duyên chân thật.
Nhân duyên vợ chồng vạn sự tùy duyên
Ngài Sùng Tín sau khi ngộ đạo, Ngài hỏi vị thầy là Thiền sư Đạo Ngộ: “Làm sao để bảo nhậm (giữ gìn)?” Ngài Đạo Ngộ bảo rằng: “Mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ hết phàm tình, không thánh giải khác.” Nghĩa là mặc tình thuận theo cái tánh đó mà tiêu dao tự tại, tùy duyên phóng khoáng thôi, chỉ cốt làm sao hết được cái tình phàm này, tình mê này chớ không có thêm một cái kiến giải thánh gì khác, không thấy có chứng có đắc gì khác nữa, đó là tùy duyên. Tùy duyên như vậy làm sao bắt chước đây?
Chỗ này là phải sống, biết rõ mình có cái chân thật rồi thì sống tùy duyên, duyên đến thì tiếp, duyên qua thì thôi, không có cố chấp, không có mong cầu thêm nữa. Đó là vì có được chỗ sống vững vàng trong này rồi, nên mới tùy duyên được như vậy, mới tiêu được những nghiệp cũ và nghiệp mới không tạo thêm.
Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài có bài kệ:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Giống như con nhạn bay trên không, nhạn bay qua thì bóng hiện dưới nước, nhạn không có ý lưu dấu vết lại dưới nước. Và bay qua rồi thì bóng mất, nước cũng không có tâm giữ bóng con nhạn lại. Đó là tùy duyên, nhạn bay qua là duyên đến thì bóng nó hiện trong nước, duyên qua rồi thì nước không lưu bóng lại.
Còn mình thì sao? Có khi duyên chưa đến mà kêu nó đến! Rồi duyên qua thì giữ lại không cho nó qua! Chính vì vậy cho nên khổ. Ngay trong lúc ngồi thiền cũng còn muốn giữ lại nữa. Ngồi thiền nhớ lại, giữ lại, lưu lại trong này, đó là không biết tùy duyên, còn biết tùy duyên thì tâm lúc nào cũng trong sáng, đâu có cái gì lưu lại trong đó thì có gì mà ngăn ngại ?
Có vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu:
– Thế nào là cầu đá Triệu Châu?
Ngài đáp:
– Độ lừa độ ngựa.
Ở gần chỗ ngài Triệu Châu Tùng Thẩm có cái cầu đá do ông Lý Ưng làm, cầu đá cũng nổi tiếng, cho nên nghe nói tới cầu đá Triệu Châu là ai cũng biết. Nhưng ở đây ông Tăng hỏi “thế nào là cầu đá Triệu Châu” ý lại khác. Ngài đáp : “Độ lừa độ ngựa”, độ tức là đưa, đưa lừa đưa ngựa qua hết. Như vậy quí vị hiểu sao là “cầu đá Triệu Châu”? thấy được “cầu đá Triệu Châu” chưa ?
Thường nghe hỏi cầu đá, người ta tưởng ngay cái cầu bằng đá. Nhưng ở đây, ý ông Tăng này chuyện đó ai cũng biết rồi, ông cũng ở đó thì ông biết rồi, đâu cần hỏi làm chi nữa. Vậy hỏi cầu đá này là hỏi cái gì? Đó là chỉ cho cái lý thật. Cho nên ngài Triệu Châu đáp “độ lừa độ ngựa”. Lừa ngựa gì cũng độ hết, đều cho đi qua hết. Lừa là loài vật, ngựa cũng là loài vật mà cái cầu đá độ hết, cho đạp đi qua hết, nhưng cầu đá không phải là lừa, không phải là ngựa, không đồng hóa nó với lừa với ngựa, đó là tùy duyên.
Còn mình thì sao? Độ thì phải độ làm sao? Phải độ những hạng thượng căn, hạng Bồ-tát chớ lừa ngựa đâu để cho đi qua. Mà không để cho đi qua tức là còn cái ngã trong này, bị cái ngã nó che. Cho nên ở đây muốn thấy lý thật thì phải như vậy, độ lừa độ ngựa, cái gì cũng là tùy duyên hết, cái gì cũng cho đi qua nhưng nó không là cái gì, khôngđồng hóa với cái gì .
Không đòi hỏi theo một cái ngã, không sanh những niệm sanh diệt hay lấy bỏ gì hết, đó là tùy duyên. Còn mình thì phải lựa, độ thì cũng phải lựa, người đó mình thương mình mới độ, còn không thương thì đâu có độ, đó là còn mắc kẹt. Còn ở đây thì độ hết, chỉ thuận theoduyên để sống trở về với Tự tánh, để làm sao cho Tự tánh của mình luôn luôn có mặt, không có vắng, vẫn luôn luôn sáng ngời trong tất cả mọi duyên, đó là khéo tùy duyên, tùy duyên mà đúng lý không lầm lẫn. Như vậy với nghĩa tùy duyên này mình làm được chừng bao nhiêu? Hiểu được như vậy mới thấy nghĩa tùy duyên rất là sâu.
3. Một điểm nữa, tùy duyên thì phải hiểu rõ được thế gian là tương đối, đó là lẽ thật của thế gian. Thế gian luôn luôn là tương đối, mọi cái có ra đều nằm trong đối đãi hết. Nhưng thấy ở đây không phải là cái thấy hiểu tầm thường, lâu nay người nghe pháp nhiều quá cũng hiểu rồi, cũng thấy rồi nhưng chưa phải. Tức là phải thấy trong lúc mình tu, thấy rõ bằng chính trí tuệ của mình cái đó mới giúp mình sống được. Chớ hiểu theo kiểu ngồi đây hiểu nhưng ra ngoài quên, ngồi đây thì hiểu thế gian tương đối, cái gì cũng đối đãi nhau mới có, không có gì là thật, nhưng khi ra ngoài đụng chuyện thì cái gì cũng thật hết, cái hiểu đó không phải.
Cho nên ở đây phải thấy bằng chính trí tuệ của mình. Xét thấy rõ trên thế gian này đều là tương đối hết, thiện đối với ác, phải đối với quấy mà có, cũng như vui đối với buồn mà có, ngay cả thầy đối với trò mà có, không trò thì đâu có thầy, cũng như mẹ đối với con mà có, không con lấy gì có mẹ.
Luôn luôn là đối đãi nhau, không có một cái gì đứng riêng, như vậy tại sao mình phải đòi hỏi một chiều? Có nhiều người còn đòi hỏi hơn nữa, đòi hỏi cái toàn mỹ, cái gì cũng phải cho toàn mỹ, toàn vẹn ! Nhưng sự thật thế gian nóitoàn mỹ chỉ là nói chơi, không bao giờ có, chỉ tuởng tượng, không thể có cái toàn mỹ nếu chưa sống được với cáichân thật. Thế gian là tương đối thì làm sao có cái toàn mỹ được !
Đức Phật có nói bài kệ:
Kẻ hơn thì thêm oán
Người thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.
Nghĩa là có hơn thì có thua, làm sao mà toàn mỹ được? Mà chính có hơn có thua, từ đó có oán có hờn, có khổ, có cái này thì có cái kia. Như vậy thì hơn không hẳn là yên, còn thua cũng không hẳn là xong. Thua còn ấm ức trong lòng cũng khổ, như vậy làm sao mà toàn mỹ được? Thường thường mình thích đòi hỏi cái toàn mỹ, sống với ai mình cũng đòi hỏi người đó phải tốt với mình, lâu lâu thấy không tốt thì bực tức, nhưng thử hỏi chính mình có toàn mỹ chưa ?
Thế gian là tương đối, tâm người là vô thường, bữa nay như vậy, nhưng mai mốt vô thườngnó đổi đâu còn như vậy nữa. Bởi vậy không có cái toàn mỹ, đòi cái toàn mỹ là mê. Bởi vì xét kỹ thì chính mình còn chưa toàn mỹ, ngay nội tâm của mình, có khi còn tự mình mâu thuẫn với mình nữa nói chi tới bên ngoài. Như vậy làm sao muốnmọi người toàn mỹ được, muốn mọi cái bên ngoài toàn mỹ được!
Thí dụ bên ngoài coi giống như vui vẻ nhưng có khi đau khổ trong lòng, ngoài làm bộ vui nhưng trong lòng đau khổ, hoặc có lúc thấy giống như muốn xả hết để tu hành nhưng rồi ít bữa đổi ý tiếc thế gian trở lại. Như vậy lúc muốn xả thì ai muốn xả, rồi lúc tiếc trở lại thì ai tiếc, ai chen vào trong đó? Cũng là trong tâm mình thôi. Chính mình đã mâu thuẫn với mình rồi, hoặc có lúc bữa nay tính đi nghe pháp nhưng rồi lại tính đi chơi, hoặc ngược lại tính đi chơi rồiđổi ý tính đi nghe pháp. Cũng là mình với mình nhưng tại sao nó có cái đó? Như vậy để thấy rằng ngay nơi mình cũng còn mâu thuẫn, vậy làm sao đòi có cái toàn mỹ trọn vẹn bên ngoài được. Đòi không được thì sao? Khổ, thật là đơn giản!
Bởi vậy, ngay như đức Phật mà mình gọi là bậc toàn giác, bậc có công đức phước trí trang nghiêm, nhưng Phật có bị người chê không? Phật cũng còn có người chê nữa, có người chê Phật là bất hiếu bỏ cha bỏ mẹ đi tu, bỏ vợ bỏ con vô rừng. Có người khen thì cũng có người chê. Rồi kẻ uống rượu say sưa có người khen không? Cũng có người khen, đồng bọn khen nhau.
Như vậy cho thấy không có cái gọi là hoàn toàn. Bởi vậy Phật mới dạy trong kinh Pháp Cú: “Xưa, vị lai và nay, đâu có cái sự kiện này: người hoàn toàn bị chê, người trọn vẹnđược khen.” Ngài nói rằng trong cả ba thời không bao giờ có sự kiện là có người hoàn toànđược khen cũng như có người hoàn toàn bị chê.
Do đó chê khen không thành vấn đề. Cho đến được mất cũng vậy, có được là có mất chớ không bao giờ có cái gọi là nguyên vẹn. Biết rõ ý nghĩa như vậy, hiểu được như vậy, mình khéo chuyển thì sống được an vui, còn cố chấp một bên thì khổ, thí dụ cố chấp là phải được cái đó mà nó không được thì khổ.
Xem thêm: Phân Biệt Thuật Ngữ Tt, Ttr Là Gì ? Thuật Ngữ Ttr Và Tt Trong Thanh Toán Quốc Tế
Như bà Tì-xá-khư (Visàkhà), bà là đại thí chủ trong thời đức Phật, một hôm đi nghe pháp, bà cởi chiếc áo choàngrất quí giá cho đứa tớ gái giữ ở ngoài rồi đi vô nghe pháp. Khi ra về không biết đứa tớ gái làm sao mà nó bỏ quênluôn. Mình gặp như vậy thì sao? Chắc là chửi mắng, đánh đập đứa tớ đó dữ lắm, bởi đây là chiếc áo choàng rất đắt giá. Nhưng với bà thì bà kêu đứa tớ gái lại nói rằng: “Con trở lại tịnh xá kiếm, nhưng tới đó nhớ hỏi xem nếu có vị Tỳ-kheo nào đụng tay tới cái áo rồi thì con đừng lấy về nữa.” Cô tớ gái đi tới hỏi thămnghe nói ngài A-nan thấy của ai bỏ quên thì Ngài lấy cất giùm rồi.
Lời Phật dạy: Tùy duyên điều phục tâm
Cô tớ gái về thưa lại, bà nghe như vậy, liền tới bạch với Phật là xin bán cái áo để cúng dường làm một Phật sự gì cho xứng đáng. Phật bảo làm một cái tăng xá để cho chư Tăng ở, bà rất là hoan hỉ. Nhưng cái áo đắt giá quá không ai mua nổi, bà bèn bỏ tiền mua lại cái áo, rồi lấy tiền đó xây tăng xá cho chư Tăng. Khi xây xong đến ngàycúng dường dâng lên Phật, tác bạch xong, bà kêu đứa tớ gái lại nói rằng: “Hôm nay sở dĩ bà được công đức này là cũng nhờ có con, công đức này bà xin chia hai, cho con nửa, bà nửa.”
Ai thấy mình làm nổi chuyện đó không? Cái được cái mất mình chuyển một cái thành ra tốt đẹp mà còn vui vẻ nữa. Mất cái áo không buồn, chuyển lại thành được phước lành rồi vui vẻ nữa, mà vui vẻ cả mấy phần trong đó: chư Tăng có tăng xá ở cũng vui, rồi bà được cúng dường hoan hỉ cũng vui, đứa tớ gái cũng được vui và ngay cả mình bây giờ nghe kể lại cũng vui theo. Nếu lúc đó mà giận lên chửi mắng đánh đập thì sao? Chẳng những không vuimà còn tạo thêm cái khẩu nghiệp khổ nữa, rồi cái thân đánh đập người tạo thêm cái thân nghiệp khổ, vậy là khổ lại càng thêm khổ!
Cho thấy chỉ vì bám chấp vào cái được, cái mất mà khổ. Bây giờ biết rõ cái mất không thành vấn đề, cho nên chuyển lại thì được vui. Cho nên khéo sống thì được, không cố chấpmột bên, cố chấp là chịu khổ. Chính vì vậytrong cuốn Pháp Hoa Đề Cương của Thiền sưMinh Chánh ở Việt Nam có bài kệ nói về ông Thuần-đà: