Tiếng lóng vốn là tiếng của…vỉa hè, chợ búa, là thứ tiếng của đám đông. Có lẽ chỉ các bậc tu hành mới không có (chứ đôi khi các ngài cũng dùng) tiếng lóng chuyên dùng . Thoạt kỳ thủy đó là tiếng của một giới nào đó ( ăn chơi, mánh mung, lính tráng…) , là con đẻ của một ngoại cảnh nào đó, không phải “tiếng lòng” tức không phải của nội tâm, càng không là ngôn ngữ của tư duy .Định nghĩa thật khó, cách giản tiện nhất là… nói tiếng lóng.
Sài Gòn là đất trẻ, nhiều dân tứ xứ (Trung Nam Bắc chen vai thích cánh với Hoa,Ấn,Tây, Mỹ v.v. Chủ yếu là thành phố công thương nghiệp tạo thành lớp cư dân nhiều sắc thái, cá tính, hơi “bốc”, trọng nghĩa khí mang tính giang hồ, thích sống thoáng, khoái hoạt.Hơn nhiều nơi khác, sức ma sát ở đây rất mạnh theo dạng chung của những thành phố cảng, càng mạnh càng bén nhạy trở thành đắc địa của tiếng lóng. Dân chơi rủ nhau xuống xóm phải tránh bị bể ống khói,( hoặc uống café đen tiểu ra café sữa), muốn thế nhớ mặc áo mưa. Cái dụng cụ dùng cả lúc nắng đổ lửa này đang đắc thời đắc thế thì bỗng… thân bại danh liệt. Số là vào năm 1963, khi một vị đại sứ cạnh chính quyền Sài Gòn sang nhậm chức thì không chậm trễ, dân chơi lúc xuống xóm đã có ông đại sứ đi kèm ! Chả là vì ngài đại sứ họ tên là Henri Cabot Lodge , trong đó cabote theo tiếng Pháp là… cái áo mưa thứ thật. Dân ăn chơi không phải ai cũng sòng phẳng, nhiều kẻ hay tìm bạn bò mộng ( khá giả) để bắt địa (kiếm tiền). Ông chủ quán cà phê La Pagode nếu giờ còn sống mà trí nhớ tốt liệu còn thắc mắc vì sao có mấy chàng sinh viên ngày nào cũng kéo đến kêu cà phê lát rồi bỏ đi, chỉ có một người ngồi lại…đọc sách cả tiếng đồng hồ.? Không đâu thưa ông chủ quán, ngồi làm va li chờ bạn đi kiếm tiền đến …chuộc đó! Nhớ hồi 56-57 gì đó, có cô ca sĩ nổi tiếng, một lần đi chơi… Nhà Bè (hồi ấy còn rất hoang vu ) hai người làm gì trong xe hơi chẳng biết nhưng bất ngờ bị tuần cảnh xét hỏi, bèn nói em với anh đi …ăn chè ,dù tại Nhà Bè thuở đó mua cả chỉ vàng cũng không có thứ gọi là chè ấy. Thế là trong từ điển tiếng lóng, ăn chè ra đời, dùng làm gì thì cứ thử ắt biết.Cũng khoảng đầu những năm 60, Sài Gòn có một nhà báo chuyên viết bài “nâng bi” , ca tụng đám tai to mặt bự, chủ bút một tờ báo do chính quyền tài trợ. Có lẽ vì mặc cảm bị anh em dè chừng, nhà báo bỗng nổi hứng viết một bài ngôn ngữ rõ là “nâng bi” nhưng bị ai đó đâm thọc mà thành ra “bóp dế”, mà là “mó dế ngựa”nên nhà báo bị xộ khám nhốt chung với du đãng. Đã mang thân tù tội, mà còn khoe mẽ nên mới bị bạn tù tẩn cho một trận mất trắng một mảng tóc.Từ đấy “mông Thẩm Thuý Hằng” ( diễn viên điện ảnh ) được dành riêng ám chỉ cho cái đầu ông cộng với “Hít tô phe” ( hút thuốc phiện ) mà anh có từ trước.“Dân chơi cầu ba cẳng” khi đã ngồi với nhau thế nào cũng phải chăm phần chăm (100%) .Số là thời chính quyền cũ đó, mỗi khi tình hình an ninh có vấn đề thường có lệnh cấm lính xuất trại, ngoài cổng treo tấm bảng “cấm trại 100%”. Không được ra phố, ở lại trại 100% thì…100% là hợp nhất! Dân nhậu thấy 100% vừa “đã” vừa hết mình với nhau thế là con số này sống mãi với thời gian. Gặp mồi lạ hoặc mồi chế biến cầu kỳ khoái khẩu, bèn kêu “bá chấy” hoặc “ve kêu”, chẳng ai hiểu thực nghĩa là gì nhưng từ đấy, học sinh bị điểm thấp hay bài khó, người lớn gặp chuyện vui, chuyện buồn “tàn canh bí đao” cũng xài luôn, tiếng lóng vốn là của đám đông mà. Nhậu nhiều lỡ mà lên dầu sống khẩn cấp, không kịp chạy ra ngoài bèn cứ ngồi tại chỗ cho chó ăn chè.Lúc ấy ai lỡ xài Đức Mã ( đồng mark- ĐM) còn gọi là xài giấy lớn thì hãy coi chừng . Sang tới giới công chức, thời xưa không có lệ họp bình bầu kiểm điểm, anh nào từ phòng sếp ra mặt hơi bị không vui thì biết anh ta được mời lên uống trà, hoặc… uống cà phê đen! Nếu thấy anh ta mệt mỏi hãy thông cảm vì trong phòng sếp anh đã phải làm đèn cầy (đứng ngay đơ) cho sếp “xát xà bông” . Tiếng lóng sinh ra rất nhanh từ một giới nào đó và đời tiếng lóng cũng ngắn. Khi lính Mỹ ào ạt sang miền Nam,chập choạng tối là những cây than (Mỹ đen) hay lảng vảng và đám dắt mối chế ngay ra OK Salem làm ngôn ngữ tiếp thị dù hàng chẳng hề là thuốc lá Salem và dù ngôn ngữ bất đồng nhưng than nghe không hiểu chết liền!.Đất nước thống nhất, người Sài Gòn làm quen – dĩ nhiên rất nhanh , tiếng lóng mà – những đánh quả, con phe, một vé hai vé , bôi trơn , mắt thứ hai tai thứ bảy, phao v.v. đã trở nên quen thuộc. Ngày nay có hai thứ không phải ngôn ngữ nhưng rất… biểu cảm: Cục gạch cắm miếng giấy và cái.. Phong bì, không biết có nên cho chúng vào từ điển tiếng lóng thông dụng không? Còn ngày hôm nay thì lô cốt là biểu tượng của một cách gọi là chống ngập của thành phố.Nhắc đến tiếng lóng mà quên nhà văn quá cố Nguyên Hồng là một sự thất lễ. Trước năm 45 cụ đã lên đời loại tiếng vỉa hè này, đưa nó vào văn chương hẳn hoi. Tiểu thuyết “Bỉ vỏ”- nội cái nhan đề đã là một tiếng lóng ( chỉ người đàn bà móc túi)- của cụ đọc thật “bá chấy”. Lần đầu tiên người đọc được nghe tiếng của giới giang hồ đất cảng Hải Phòng: Mõi ( móc túi); kỳ bẽo (cờ bạc); sò quỷnh (người nhà quê); đông địa (nhiều tiền) v.v. Một dân móc túi thuộc loại trinh sát theo dõi một người nhà quê có vẻ có tiền, khi thấy ông ta vào quán cơm bụi, đã báo cho đàn anh biết một cách gần như công khai : “Sò quỷnh đông địa tranh vòm” (vào quán)! Trong khi chưa tìm ra ai khác nhà văn Nguyên Hồng, xin cứ tôn xưng cụ là …vua tiếng lóng. Vì nhân vật của cụ nói nguyên một câu bằng tiếng lóng, còn đám hậu sinh chỉ đệm được vài từ là cùng .
Tiếng Lóng Sài Gòn(Lê Văn Sâm)… Có thể bạn chưa biếtMột thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, tìm sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời “tiếng lóng” khác đến thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rõ định vị địa lý và thời gian.Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh hành một chùm tiếng lóng “sức mấy” để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố “Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám.”Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn bị tạm chiếm, Tây – Mỹ nhiễu nhương, quê hương chiến tranh buồn phiền; “sức mấy” đã trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt “tính tính tè tè, tè ti tè ti té”, làm cho đường phố càng náo loạn hơn.Trước đó cũng từ bài ca Diễm xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra cụm từ tiếng lóng “xưa rồi Diễm ơi”, mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó, mà người nghe muốn gạt phăng đi.Thời các vũ trường mới du nhập Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng “Cai gà”, gọi cảnh sát là “mã tà”, vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành “mã tà”. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: “gác dan” tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dan. Cũng như nói “de cái đít” tức lùi xe arriere; tiền bồi dưỡng người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi “tiền boa”, sau này chế ra là “tiền bo”.Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi ngân hàng là nhà băng, gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là “con cò”, còn nếu gọi “ông cò” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi “thầy cò” tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói “cò mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền cò” thì cũng giống như “tiền bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.Thời kinh tế mới phát triển, đi xe auto gọi là đi “xế hộp”, đi xe ngựa gọi là đi “auto hí”, đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là “xe điếc”, đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi Cấp”, đi khiêu vũ gọi là “đi bum”, đi tán tỉnh chị em gọi là đi “chim gái”, đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ vàng là “khoẻn”, gọi quần là “quởn”, gọi bộ quần áo mới là “đồ día-vía”. Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi xòe”, đi đánh chắn gọi là “múa quạt”, đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”, đi hớt tóc gọi đi “húi cua”. Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 – 1950 du nhập Sài Gòn, đó là “đi đầu dầu”, tức các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là “hết sẩy”, quê mùa chậm chạp gọi là “âm lịch”, hách dịch tự cao gọi là “chảnh”.Tiền bạc gọi là “địa”, có thời trong giới bụi đời thường kháo câu “khứa lão đa địa” có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là “xù”, “xù tình”, tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là “bắt địa”, ăn cắp là “chôm chỉa”, tương tự như “nhám tay” hay “cầm nhầm” những thứ không phải của mình.Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng “hia mão”, có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi “kép chầu”, có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách valyse trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì “kép chầu” thay thế vào ngay. “Kép chầu” phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là “đào thương”, kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là “kép độc”. Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là “café à la… ghi” tức uống café thiếu ghi sổ…Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi “nhật trình”. Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là “tin kho tiêu”, các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là “tin chó cán xe”, tin quan trọng chạy tít lớn gọi là “tin vơ-đét” vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là “luộc bài”, chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là “xào bài”, truyện tình cảm dấm dớ gọi là “tiểu thuyết 3 xu”, các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là “báo lá cải”. Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là “tin phịa”, nhưng trong “tin phịa” còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là “tin ballons” tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là “tin Cá tháng Tư”.Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là “tịch”, “hai năm mươi”, “mặc chemise gỗ”, “đi auto bươn”, “về chầu diêm chúa”, “đi buôn trái cây” hay “vào nhị tỳ”; “nhị tỳ” thay cho nghĩa địa và “số dách” thay cho số một… đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là “vòng vo Tam Quốc”, ai nói chuyện phi hiện thực gọi là “chuyện Tề Thiên”, tính nóng nảy gọi là “Trương Phi”. Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là “Nhạc Bất Quần” tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là “Đoàn Chỉnh Thuần” tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé…Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng “ăn theo” mà ra đời.Thời Mỹ đến thì một tiếng “OK Salem”, mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là “sén” hay “chó lửa”, dân chơi miệt vườn gọi “công tử Bạc Liêu” còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện cụm từ “dân chơi cầu ba cẳng” thì thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi “dân chơi cầu ba cẳng”? Đó cũng là lúc các tiếng lóng như “dân xà bát”, “anh chị bự”, “main jouer” tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là “anh hùng xa lộ”, bị bắt gọi là “tó”, vào tù gọi là “xộ khám”. Bỏ học gọi là “cúp cua”, bỏ sở làm đi chơi gọi là “thợ lặn”, thi hỏng gọi là “bảng gót”. Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó “đi ăn chè” trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô.Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như “chà đồ nhôm” tức chôm đồ nhà, “chai hia” tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với “cưa đôi”. Lóng thời sự loại này có “tô ba lây đi xô xích le” tức Tây ba lô đi xe xích lô. Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than “buồn như chấu cắn”, hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng “lu bu” để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm “lu xu bu” nại lý do không rõ ràng để trốn việc. Để tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành “quả tó”, gọi chiếc xe Honda là “con rim”, gọi tờ giấy 100 USD là “vé”, đi ăn cơm bình dân gọi là “cơm bụi”, xuống phố dạo chơi gọi là “đi bát phố”, gọi người lẩm cẩm là “dở hơi”…Nhưng lý thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài Gòn nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo American style – tiền ai nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của “không – ai – mời – ai”. Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn cổ truyền nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đã chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, các cô nói “lemon question” tức chanh hỏi – chảnh – (mở ngoặc: hoặc nói chệch đi: lê-mông-wét-trần! )
Tản mạn Sài Gòn.Sài Gòn đối với đa số dân Sài Gòn gạo cội không phải là “thành phố 10 mùa hoa”, “thành phố mang tên Bác”, hay thành phố cay cú “tôi mất người như người đã mất tên”, …Sài Gòn hiền lành hơn thế nhiều. Dân Sài Gòn vốn vẫn thờ ơ với chính trị, nhất là thứ chính trị Salon vô bổ, nhiều lời lẽ, thiếu tính thực tế.Dân Sài Gòn chính hiệu “con nai vàng” chẳng bao giờ gọi Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh. Không nhất thiết là vì lý do chính trị. Thằng Tí thằng Tèo trong mắt bà ngoại trăm năm vẫn là thằng Tí thằng Tèo, bất kể địa vị xã hội của nó là gì. Tôi có nói chuyện với vài bạn trẻ ở miền Bắc mới sang Mỹ, nghe họ dùng “thành phố Hồ Chí Minh” để nói đến Sài Gòn, thấy quai quái thế nào ấy, dù tôi chẳng có lý do gì chính đáng.***Sài Gòn, dù trong thời buổi khó khăn nhất, vẫn như một cô tiểu thư đài các: đỏng đảnh đôi chút mà dễ thương thiệt nhiều.Nhắc đến Sài Gòn người ta hay nhắc đến mưa, nhưng tôi lại nhớ dai dẳng cái nắng gay gắt của nó.Nhà tôi ở một con đường nhỏ. Trưa hè đặt cái “lưng dài vai rộng” xuống nền gạch bông mát lịm, ngắm bầu trời xanh ngắt, gió nhẹ hiu hiu, thì không có nơi nào trên quả đất này cho cảm giác thanh bình hơn.”Một ngõ vắng xôn xaoNằm trong lòng phố lớn …”Khác với Hà Nội, không gian Sài Gòn rất thoáng, chí ít là cách đây hơn 15 năm. Không gian của một buổi trưa hè hiu gió còn thoáng hơn vạn lần. Tôi luôn có cảm giác mình có thể bay bổng lên, thò tay với cụm mây bồng bềnh trêu ngươi.Tuy thoáng, không gian Sài Gòn không bao giờ làm ta cảm thấy lạc lõng. Những tiếng rao thi thoảng của người bán dạo nghe nao nao, cuộn cả buổi trưa hè thành một miếng bột bánh bèo trắng phau với ít đậu xanh, mỡ hành, nước mắm đường ngọt lịm.Từ ve chai, bánh bao chỉ, chè đậu xanh bột báng nước dừa, kẹo kéo, tàu hủ, đến mì gõ, … đều có nguời mang đến tận cửa. Có rất nhiều tiếng rao mà đến bây giờ tôi vẫn không hiểu nghĩa, nhưng nghe cái cung nhạc ấy thì biết ngay là họ bán cái gì.Người Sài Gòn cũng thoáng như không gian Sài Gòn vậy! Không đâu có thể dễ có nhiều bạn, và bạn không tồi, như ở Sài Gòn. Không chỗ nào trên đất Việt Nam người ta sống năng động và khoáng đạt hơn ở Sài Gòn.***Trước khi bàn chuyện “người lớn” này, xin mạn phép quay lại chuyện thằng Tí thằng Tèo.Ðối với một thằng Tèo Sài Gòn chính gốc con nhà nòi thì Sài Gòn dĩ nhiên là “bự” hơn một buổi trưa hè.Sài Gòn là những chiều tụ tập bấm chuông nhà người ta, cho đến khi nghe chửi “D.M. tụi bai con cái nhà ai mất dại bấm chuông wài dzậy” thì mới chịu vắt giò lên cổ chạy.Sài Gòn là các hồ bơi Lao Ðộng, Chi Lăng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, là mấy củ khoai mì nóng hổi với dừa nạo, là nước mía lạnh, là ốc dích ốc táng, là bắn bi ca-de với những câu đồng dao khó hiểu như thần chú: “lang cang báng dội ăn tiền”. Nói sai hay nói thiếu một chữ là đánh nhau chí tử để rồi ngày mai lại càu nhàu chơi tiếp.Sài Gòn là những buổi tối cúp điện, tụ họp ca hát hay vừa hồi hộp vừa thích thú nghe và kể chuyện ma như chính mắt mình thấy hôm qua.Sài Gòn là những con diều làm đi làm lại, treo thêm cả vài cái lưỡi lam để cắt dây diều khác; là dế hộp quẹt thổi phù phù “đá bắt xác”; là chùm ruột chua ngọt, những cùi thơm, cóc ổi ngâm cắm que cà rem “đa năng” không biết đã được dùng lại bao nhiêu lần.Lớn lên một tí, Sài Gòn là cô bé hồi hộp chờ thằng Tèo hái cho cả cành phượng về ép làm bướm; là hàng điệp trải thảm vàng rực ở trường phổ thông; là quán cà phê từng buổi đón em về.Xin trích đoạn một bài hát tôi viết đã lâu, đặt tên (rất tự nhiên) là “Lâu Lâu”:”Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưaBuổi trưa thường hái trộm meThằng leo, thằng đứng làm thang ……Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưaPhượng cao mấy cũng trèo lênChỉ vì cô bé mắt tròn xoe, … mắt tròn xoe”Dĩ nhiên, cô bé mắt tròn xoe của tôi vẫn đang ở … Sài Gòn.Sài Gòn đáng yêu lắm! Nó đơn giản và khoáng đạt, không bao giờ cần cái văn vẻ “màu mè ba lá hẹ”, không cần các suy nghĩ tự tôn ra vẻ triết gia hướng nội, để phải miệt thị kẻ khác quan điểm.***Sài Gòn còn là thành phố của sự đối lập: giữa những biệt thự kín cổng cao tường và đám nhà ổ chuột trên kênh hôi hám; giữa văn minh đô thị và những tiếng chửi thề; giữa sự ồn ào bụi bặm và không gian im lắng thanh tao. Nổi bật hơn tất cả là sự đa dạng vô cùng của con người Sài Gòn. Ðặc biệt là họ không sống “như đã từng được sống”, mà luôn “sống như chưa được sống bao giờ”.***Ân mình sau các hàng bông giấy, dây thủy tiên chói đỏ, là những ngôi biệt thự lúc nào cũng kín cổng. Không ai biết những người sống trong đó làm gì, là ai, và cũng chẳng ai thật sự quan tâm … ngoại trừ bọn thằng Tí thằng Tèo.Bọn nhóc chúng tôi thường có rất nhiều các truyền thuyết về những người sống trong mấy ngôi nhà ấy.Ơ đầu ngõ nhà tôi cách đây khoảng 20 năm có một ngôi nhà như thế, chỉ hơi khác là hai cánh cửa sắt to đùng lại thấp lè tè. Mỗi chiều có một anh chàng vác ghế đẩu cao ngồi tì tay lên cửa trông ra đường. Gã chẳng bao giờ cạo râu cắt tóc. Mặc dù nắng chiều rạng rỡ xóa bớt phần nào sự ma quái, bọn tôi vẫn chẳng dám đến gần gã.
Đang xem: Thằng khứa là gì, nghĩa của từ khứa, danh từ khứa nghĩa là gì hả các thím
Xem thêm: Tập Plank Là Gì – Plank Là Gì, Hướng Dẫn Tập Plank Đúng Cách
Xem thêm: Toxic Masculinity Là Gì – Chớ Có Hiểu Sai Về 'Đàn Ông Đích Thực'!
Người ta có rất nhiều “lý thuyết” khác nhau về gã: nào là người yêu bỏ đi Mỹ, bị công an lấy mất gia tài, vân vân và vân vân. Cuối cùng hình như hắn chỉ giả điên để trốn nghĩa vụ quân sự . Ðến khi hết tuổi người ta thấy hắn cạo râu, cắt tóc ngắn chờ ngày xuất cảnh.Dù gì thì gì, những ngôi biệt thự vẫn là nguồn cảm hứng vô tận cho hàng tỉ câu chuyện mê li rùng rợn bọn tôi truyền miệng mỗi tối cúp điện.Chỉ cách những tòa lâu đài ấy vài trăm mét là một xóm lao động nghèo với những “truyền thuyết” kiểu khác hẳn: truyền thuyết về các “anh hùng” du đãng như trong tiểu thuyết Duyên Anh. Có lần một trong những anh hùng nổi tiếng nhất “xóm Chùa” mang dao đứng giữa ngã Năm thách đấu công an phường. Cuối cùng một anh công an nhảy vào đánh tay đôi với hắn và buộc phải dùng súng hạ gã.Ði thêm khoảng trăm mét nữa là đến con rạch thúi hơn cầu tiêu công cộng ở Ðại Học Bách Khoa tỉ lần. Vậy mà tôi vẫn từng đi câu cá bống, vớt trùng chỉ với lũ bạn. Câu cả ngày được 2 con cá nhỏ hơn ngón tay út. Chỉ có trùng chỉ là lần nào cũng vớt được rất nhiều, làm mấy con cá Tàu nhà tôi ăn sình bụng bơi lặc lè kéo theo dây phân dài cả thước.”Xóm” tôi có khá nhiều nhà có piano. Chiều chiều nghe lũ nhỏ tập từ Methode Rose, Hannon đến Classic 3, từ sòn đô sòn đến Tempest. Lẫn vào trong đó luôn là tiếng chửi thề của bà Tư nhà bên cạnh. Có lẽ chẳng có món “xí quách” nào … xí quách hơn sự pha tạp của hai loại âm thanh ấy.Buổi chiều ở Sài Gòn đối lập hẳn với buổi trưa yên tĩnh. Dường như cái dìu dịu của nắng ấm làm người ta có nhiều năng lượng hơn. Chí ít là bà Tư lúc nào cũng có thừa năng lượng vào buổi chiều. Bà chửi từ ông Tư tới thằng con mất dạy. Ỏng Tư thì chẳng nói lại nhiều lời trừ khi mới nhậu xong. Chai rượu đế gò đen (chứ hổng phải ổng) vác dao bửa củi gí vào cổ bà vợ to béo, gã con trai thì vừa can vừa … đục luôn ông già, trong lúc đó tiếng Tempest vẫn vang vang ngắt quãng.Ðiểm lạ (!?) nhất là tiếng Tempest vài năm sau biến mất, còn vợ chồng ông bà Tư vẫn sống “vui vẻ” với nhau như thế …***Tính đối lập của Sài Gòn rõ nét nhất là vào buổi tối . Người ta đã viết rất nhiều về “Hòn Ngọc Viễn Ðông” và tính phân chia giai cấp khắc nghiệt của nó. Ðó là trước 75. Sau giải phóng cái danh hiệu Hòn Ngọc Viễn Ðông bị Bangkok cướp mất, nhưng tính đối lập của Sài Gòn chẳng ai cướp nổi. Sài Gòn không bao giờ ngủ. Khoảng 9, 10 giờ đêm là các vũ trường bắt đầu hoạt động. Bọn con nhà giàu tí tởn hẹn hò dream, LA, su 100, quần xẻ, váy cao, phóng vù vù qua các đường Nguyễn Huệ, Ðồng Khởi, Hàm Nghị … sau đó vọt đi mấy cái Discoteques vang bóng một thời như Thái Sơn, Cadillac, Queen Bees, … Phong trào đua xe thì Sài Gòn luôn đi đầu. Thủa chưa có nhiều xe gắn máy thì bọn choai choai đã biểu diễn đi xe đạp một bánh xoay mòng mòng hàng đêm trước nhà hát lớn. Ðến khi có xe gắn máy nhiều rồi thì cả đội “Bồ Câu Trắng” cũng chẳng bị ai ngán. Hơn nữa bị giam xe thì một bữa chân gà rút xương ở Hàm Nghi là lấy xe ra cái rụp.Khuya hơn nữa thì gái “Ca Ve” tràn về các quán cơm tấm, mì xe để “đá đèn” (ăn đêm). Bọn “dân quậy” bao gồm lũ nhóc mới lớn lẫn dân giang hồ thứ thiệt cũng tham gia đá đèn la hét đến 3, 4 giờ sáng.Cùng khi đó các em nhỏ bán vé số cũng hoạt động cật lực. May mà vớ phải dân chơi trúng quả nó mua cả cọc thì ngày mai không phải lo tiền ăn. Cựu chiến binh, thương phế binh thì vác đàn hát “Phố Ðêm”, cay đắng xin từng đồng của lũ nhỏ mặt búng ra sữa chưa bao giờ hiểu hai chữ “mất mát” nghĩa là gì. Ðến 3, 4 giờ sáng, khi lũ dân chơi đã hoàn toàn mệt lử lũ lượt ra về, thì dân lao động bắt đầu một ngày mới. Xích lô, ba gác chở rau thịt ra chợ bán. Các lò bánh mì bắt đầu xay bột trét bơ nướng bánh thơm lừng. Mấy chị bán cà phê vỉa hè cũng bắt đầu đun nước, pha cà phê vợt cho gã xích lô mới tỉnh ngủ mắt vừa nhắm vừa mở vừa tán tỉnh.Mùi mồ hôi lẫn với mùi bơ, mùi men, mùi khói SU-100 dần biến, quyện với mùi không khí ẩm mát tinh sương tạo ra “mùi Sài Gòn” buổi sáng ở các khu phố chợ rất đặc trưng.***Dân Sài Gòn “quái chiêu” lắm, lúc nào cũng than thiếu tiền, nhưng không sống tằn tiện bao giờ! Họ hào hiệp với bản thân và bè bạn; và họ luôn tìm được cách kiếm tiền.Nhiều người bảo tôi rằng dân Nam Bộ được thiên nhiên ưu đãi, sống hôm nay khỏi lo ngày mai, nên họ sống rộng rãi hơn dân miền Trung và miền Bắc.Có lẽ đúng. Nhưng còn cái gì đó hơn thế nữa! Kiểu ăn xài “xả láng sáng dậy sớm”, dù nghèo rớt mồng tơi, dường như ăn vào máu của dân Sài Gòn, ăn vào không khí họ thở hàng ngày, ăn cả vào cái văn hóa hổ lốn cẩu xực của họ. Dĩ nhiên để ăn xài thì đầu tiên phải kiếm ra tiền.Kiếm tiền thì có lẽ không đâu có nhiều cách như Sài Gòn.Trong thời còn ăn bo bo, gạo tổ đỏ lòm, thời dân Hà Nội còn ganh nhau từng cái khung Chiến Thắng, lốp Phượng Hoàng, hộp sữa cân đường tiêu chuẩn, thì dân Sài Gòn đã bắt đầu nuôi heo lậu, quấn thuốc lá Lạng Sơn pha lá dừa, làm pháo giả, bán thuốc Tây “bột năng” đầy ngoài chợ … Hiển nhiên một phần là do ưu thế xa “trung ương”, nhưng phần chính là do dân Sài Gòn sống rất “năng động”.Những năm 79, 80 mà thấy anh nào bị cối kẹp nách, mặt mũi lấm lét ở chợ Nguyễn Hữu Cầu thì biết ngay là hắn buôn thuốc Tâỵ Sau khi chợ thuốc Tây bị dẹp thì đường Nguyễn Hữu Cầu biến thành cái chợ trời đầu tiên của Sài Gòn sau 75. Ỏi thôi thì quần zin áo pun, đồ Mỹ lẫn đồ chợ Lớn, bếp điện Liên Xô dây Gò Vấp, … Ơ Sài Gòn cái gì bán được là có người bán. Ðừng hòng mà mua được đồ xịn nếu mà không quen biết hay hiểu biết. Nhiều người tự thị là “rành” nhất bị lừa mà vẫn còn hí hửng. Ðó là chưa nói đến giá cả trời ơi. Tôi thường tự hỏi ai cũng bán hết thì lấy ai ra mà mua? Tiền đâu ra mà mua? Thế mà chợ lúc nào cũng đông. Ðúng là Sài Gòn!Nếu không thích cảnh chợ búa “gần mực” thì người ta quấn thuốc lá, nuôi heo với cơm thừa canh cặn pha cám lậu ở ngay trong nhà. Chuồng heo phải lau rửa ít nhất hai lần một ngày, sợ hôi thì ít, mà sợ công an phát hiện thì nhiều . Lái heo bốn rưỡi sáng đã mang xe ba gác đến chở. Bọn lái heo lậu giết heo còn giỏi hơn công nhân chuyên giết-mổ heo ở xí nghiệp Cầu Tre sau nàỵ Chích điện con heo chỉ kêu cái “éc” là chết ngoẻo tò te, xẻ làm bốn mất độ mươi phút, sáng hôm sau bà con có thịt heo tươi bán ở chợKhi xí nghiệp nước đá Sài Gòn chưa ra đời thì nhà nhà làm đá, người người bán nước đá. “Cho con 2 cục đi dì ơi!” là câu cửa miệng trưa hè của dân Sài Gòn. Tiền điện thì vừa đắt cứa cổ vừa phải có tiêu chuẩn. Mua cả cái tủ lạnh chuyên làm đá bỏ mối tháng cho các quán cà phê vỉa hè cũng chỉ đủ tiền ăn trưa cho gia đình là giỏi.Người ta còn buôn cả những thứ tưởng chừng như chẳng có người mua vào thời đó như pho mai Liên Xô thúi hoắc, bánh kẹo Vinabico, rượu XO pha rượu lúa, nước lã và cồn …Ðến giữa và cuối thập niên 80 thì cơ hội kiếm tiền còn nhiều gấp bội. Sinh viên học sinh nghèo thì đi dạy thêm, quen biết hơn tí nữa thì đánh hàng Viễn Dương, hàng Ðông Ảu, buôn thuốc lá Campuchia, mua bán xe gắn máy kiếm vài chỉ dẫn “ghệ” đi chơi dễ như bỡn. Bọn Tèo kinh doanh còn buôn cả đất đai, làm xây dựng kiến tiền tỉ khi còn chưa ra trường. Không nhất thiết phải chúi đầu vào học kiếm suất đi Tây. Sống cái đã, ngày mai là chuyện của tương lai!Kể cả các thầy dạy luyện thi đại học cũng biết làm ăn ra trò: xây thêm nhà mở lớp học, có cả lớp học máy lạnh cho con nhà giàu học riêng một lớp năm bảy đứa. Các thầy nổi tiếng rất biết marketing, dạy cả lớp giỏi lấy tiền ít để bọn nó thi thủ khoa mang danh tiếng cho thầy, chia lớp ra làm cả chục tầng tùy trình độ.Các chị các cô khéo tay thì làm bánh, làm hoa giả, pha nước hoa bán đầy đường Ðồng Khởi, làm kem dừa, kem chuối tăng thu nhập gia đình.Ðừng tưởng dân Sài Gòn chỉ lo làm ăn không đọc sách. Sài Gòn có vài trăm tiệm sách cũ mà dân nghiền sách nhẵn mặt. Từ sách Giải Tích Hàm của Lê Hải Châu, sách Tuổi Hoa trước giải phóng, chưởng Kim Dung, đến hình ảnh sách báo khiêu dâm của Mỹ, HongKong hay báo Toán Học Tuổi Trẻ, Kvant, và mọi loại truyện ngắn, dài, tiểu thuyết nội ngoại, đều có cả.Nhân chuyện buôn thuốc, tôi có thằng bạn đi Tây Ninh buôn hai cây thuốc Zet bị bắt tịch thu luôn cả cái xe dream. Rõ là ngu! Thằng cu phá phách kinh khủng, nhưng cũng vui tính ra phết. Có lần ngồi uống cà phê hắn bảo cô bán hàng: “Liên ơi cho anh mượn sợi dây thung.” – “Chi dzậy anh?”, Liên hỏị Nó bảo: “để anh thắt ống dẫn tinh”. Cô bé mặt đỏ lừ không biết có bỏ cái gì vào ly cà phê của nó không.***Sài Gòn là thế đấy, muôn người muôn mặt, đa dạng vô cùng!Dù phần nào bị cuộc sống sôi nổi cuốn trôi, Sài Gòn vẫn có nhiều thằng Tèo mộng mơ làm thơ viết truyện dễ thương khôn tả: làm ăn tay phải, văn nghệ tay trái. Hình ảnh con Thơm cái Thắm hàng me gốc điệp không bao giờ phai nhạt trong mắt bọn Tèo Sài Gòn.Tôi vẫn còn nhớ Tèo Nguyễn Nhật A”nh với “cô gái đến từ hôm qua”, “còn chút gì để nhớ”, “truyện cổ tích dành cho người lớn” …”Lòng em như chiếc lá khoaiÐổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu …”Hay Tèo Bùi Chí Vinh:”Cô gái ơi anh nhớ em,Như con nít nhớ cà rem vậy màNhư con dế trống đi xa,Lâu lâu lại nhớ quê nhà gáy chơiCon dế thường gáy một hơi,Còn anh gáy hết … một thời con trai, …”Ðến đây tôi chợt nhận ra rằng viết về “một thời để nhớ”, về những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ thì rất dễ, dễ đến mức cái thằng văn dốt chữ nát như tôi cũng “xổ nho” được vài dòng. Khi viết cái gì ít vô thưởng vô phạt hơn một chút thì phải bắt đầu nhìn trước ngó sau, câu chữ trúc trắc, ý vẫn tràn nhưng sợ hiểu sai hiểu lệch, lại phải tránh chính trị chính em …Tôi đã định dừng ở đây vì câu chuyện đã nhạt dần đi, cái hào hứng ban đầu của bạn đọc, nếu có, chắc cũng không còn nồng nhiệt nữa. Thế nhưng chẳng thể để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng về một Sài Gòn với hai cây thuốc Zet, tôi lại phải tìm cách khác để kết thúc. Chỉ sợ rằng cũng chẳng khá hơn 2 cây thuốc Zet là mấy.***Nếu phải so sánh Sài Gòn với Hà Nội chẳng hạn, thì ta có thể so sánh ngay hai loại ổi của hai xứ. Ôi đào Hà Nội thơm lừng, ngọt ngay, ruột đỏ tươi rất đẹp, nhưng cùi mỏng, hột to, vừa khó nhá vừa chỉ nhắm được tí là hết. Ôi Sài Gòn to hơn nắm tay, cùi dày, không ngọt và thơm như ổi đào nhưng giòn tan, cắn một miếng là mát lịm, lại có thể chia cho nhiều người ăn, chấm muối ớt nghe qua là chảy nước miếng.Con gái Sài Gòn cũng vậy, nghe qua là … chảy nước miếng.Con gái Sài Gòn dễ thương lắm! Họ có cái nhìn trong trẻo về cuộc sống, lại chẳng giận dai vùng vằng vô lý bao giờ . Ði đón trễ thì: “anh để em chờ nãy giờ đó coi có được hông? Ghét dễ sợ luôn hà!” Cộng với một cái lườm, hai cái nguýt thì bọn Tèo Sài Gòn hối hận quá cả 2 tháng sau mới … trễ lần nữa. Con gái Sài Gòn rất biết ăn mặc, đi đứng. Tiền có thể thiếu chứ phong cách tiểu thư thì chẳng thiếu bao giờ. Tiểu thư Sài Gòn không ưỡn ẹo mè nheo, mà phóng xe vèo vèo đứng tim Tèo.Giọng gái Sài Gòn thì ngọt hơn mía lùi. Cái câu “hổng chịu đâu” mà nghe dân xứ khác nói thì ngứa lỗ nhĩ, nghe con gái Sài Gòn nói thì bọn Tèo Sài Gòn như bong bóng xì hơi, biểu cái gì cũng nghe ráo trọi. Con gái Sài Gòn lãng mạn chẳng kém ai, nhưng cũng rất thực tế. “Ðược thì được hổng được thì thôi, làm chi mà dzữ dzậy!” Sài Gòn là vậy đó, ít nhất là từ cái nhìn của Tèo tôi . Còn ti tỉ nhiều đề tài thú vị về Sài Gòn mà tôi không muốn đề cập vì lười là chính: cuộc sống sinh viên học sinh Sài Gòn, các trò ma mãnh “cua ghệ” của bọn Tèo Sài Gòn, con trai Sài Gòn, bạn bè Sài Gòn, …Tôi đã nghe rất nhiều những lời nhận xét kiểu vơ đũa cả nắm: con trai Sài Gòn thế này, con gái Sài Gòn thế kia, dân Sài Gòn thế nọ … Càng nghe càng thấy buồn cười vì đa số những người nói mấy câu đó chưa bao giờ thật sự sống ở Sài Gòn. Không hiểu có ai đó đọc bài này xong thì có thay đổi cái nọ cái kia trong nhận thức của họ không? Hy vọng nhỏ nhoi của tôi là những thay đổi, nếu có, là theo hướng tốt hơn.Riêng tôi thì tôi vẫn nhớ day dứt cái ngõ nhỏ xôn xao ấy …Chuyên mục: Công Nghệ