Bệnh Sốt mò là một bệnh do tác nhân Orientia tsutsugamushi, có ổ dịch thiên nhiên, truyền ngẫu nhiên sang người khi bị ấu trùng mò đốt.

Đang xem: Bệnh sốt mò là gì, biểu hiện và cách phòng tránh bệnh sốt mò

Bệnh phân bố chủ yếu ở Châu Á (Trung Á, Đông Á, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương), từ Nhật Bản sang Pakistan, từ Triều Tiên xuống Bắc Úc, tính chất những ổ dịch nhỏ rải rác (đảo Typhus) trên các trảng bìa rừng, các rừng mới phá hoặc mới trồng, vùng giáp danh, nơi nhiều cây con bụi rậm, các bãi cỏ ven sông suối, trên nương rẫy, những điểm có bóng mát dâm và đất ẩm, thậm chí vùng sa mạc mới khai khẩn và núi cao Hymalayia cũng có.

Mọi lứa tuổi đều thụ bệnh nhưng chủ yếu bệnh phân bố ở lứa tuổi lao động, phân bố tính chất nghề nghiệp, lâm nghiệp, nông nghiệp, bộ đội; bệnh gặp chủ yếu ở vùng nông thôn rừng núi (80,5%), hiếm ở thành thị. Ở vùng ôn đới và nhiệt đới bệnh phát triển về mùa hè và những tháng mưa có độ ẩm cao là thời gian chỉ số sốt mò cao.Bệnh xuất hiện ở Việt Nam quanh năm nhưng chủ yếu về mùa mưa từ tháng 4-5 đến tháng 9-10, đỉnh cao vào những tháng 6-7.Đối tượng dễ mắc bệnh là dân đi khai hoang, bộ đội hành quân tập luyện dã ngoại.

2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh

– Nguồn bệnh: là các động vật hoang dã: như loài gậm nhấm (chủ yếu là chuột), thỏ, lợn, các loài chim, hoặc gia súc (chó, lợn, gà)…

– Trung gian truyền bệnh: Mầm bệnh là Orientia tsutsugamushi (còn có tên R.orientalis, hoặc R.tsutsugamushi). Ấu trùng mò bị nhiễm R. orientalis khi hút máu vật chủ có mang mầm bệnh; sau đó ấu trùng mò phát triển thành mò trưởng thành và đẻ trứng.Trứng nở thành ấu trùng đã mang sẵn mầm bệnh và sẵn sàng hút máu (mò có thể truyền mầm bệnh qua trứng đến đời thứ 3). Những con ấu trùng đời sau này sẽ làm lây nhiễm cho các con vật khác và người khi đốt và hút máu. như vậy mò vừa là vật chủ, vừa là trung gian truyền bệnh. Quá trình nhiễm trùng được duy trì trong tự nhiên giữa mò và các loài gặm nhấm v.v..và do mò truyền mầm bệnh qua các đời sau của mò. Việc mò đốt và hút máu người, truyền R.orientalis sang người chỉ là một sự ngẫu nhiên.

– Điều kiện lây truyền: mò Leptotrombidium thường sống ở các bụi cây, bụi cỏ ẩm…phía trên là các vòm cây cao; hoặc trong các hang đá có các loài gậm nhấm sống. Do đó người thường mắc bệnh sốt mò khi đi qua hoặc làm việc ở những nơi này như: bộ đội hành quân chiến đấu, người đi săn, phát rẫy làm nương rẫy v.v..hoặc khi đi qua các vùng ven suối, ven song, vào các hang đá.

-Cơ chế bệnh sinh: Từ vết loét r. orientalis đột nhập vào hệ bạch huyết gây viêm hạch tại chỗ rồi tiến tới gây viêm hạch toàn thân, gây sưng, đau hạch. đồng thời chúng đột nhập vào máu gây viêm nội mạc huyết quản toàn thân gây tổn thương viêm nhiễm ở các phủ tạng.

*

Những vết đốt ở đùi của bệnh nhân sốt Mò

Bệnh cảnh lâm sàng nặng – nhẹ tuỳ thuộc vào nhiều điều kiện như: nơi cư trú, độc tính của từng chủng. Đồng thời phụ thuộc sức đề kháng của bệnh nhân kết hợp với cơ chế nhiễm độc dị ứng của cơ thể đối với r. orientalis.

Kháng sinh không diệt được r. orientalis, chỉ hạn chế sự phát triển của nó. Do đó, dù đã được điều trị đặc hiệu r. orientalis vẫn tồn tại trong cơ thể nhiều tháng, nhiều năm trong các hạch và gây tái phát bệnh.

3. Triệu chứng lâm sàng

Thể thông thường điển hình:Thời kỳ nung bệnh: trung bình từ 8 đến 12 ngày, sớm là 6 ngày, dài là 21 ngày.Thời kỳ khởi phát:

Tại nơi mò đốt nổi lên nốt phổng nước, thời gian này chỉ trong vòng một ngày tính từ khi mò đốt.Song bệnh nhân không hề biết vì không thấy đau, dát hay ngứa.bệnh nhân chỉ đi điều trị khi bị sốt cao và bệnh đã vào giai đoạn toàn phát. Nốt phổng này sau đó sẽ thành vết loét.Thời kỳ toàn phát:+ Hội chứng nhiễm trùng nhiễm độc:thường nặng nề và là những triệu chứng sớm của bệnh với các biểu hiện:

– Sốt nhẹ 1đến 2 ngày đầu, sau sốt cao liên tục; cũng có nhiều trường hợp đột ngột sốt cao ngay 39 – 40°c trong ngày đầu giống như sốt rét.

– Sốt cao liên tục dai dẳng xung quanh 40°c hình cao nguyên hoặc kiểu nối cơn kéo dài từ 15 đến 20 ngày.Nếu không được điều trị nhiệt độ và mạch thường phân ly giống thương hàn.

– Tình trạng nhiễm độc thần kinh thường nặng nề, nhức đầu là dấu hiệu khởi đầu, đau khắp đầu, có thể nhức cả 2 hố mắt.

– Mệt mỏi, khó chịu, hoa mắt, chóng mặt, đi lại lảo đảo, ù tai, lưỡi run rẩy, có cơn vã mồ hôi, đau cơ nhiều như trong bệnh leptospirosis – có những trường hợp cũng li bì thờ thẫn, u ám như trong bệnh thương hàn.

+ Hội chứng vết loét – hạch – ban:

-Loét: vết loét gặp ở nhiều nơi khắp cơ thể, thông thường ở chỗ da non và ẩm. hay gặp là ở bộ phận sinh dục; nách, bẹn rồi đến hậu môn, háng, thắt lưng sau mới tới chân tay, lưng, ngực, bụng, cổ, đôi khi vết loét ở vị trí khá bất ngờ như vành tai, rốn, mi mắt. Vết loét thường hình tròn hoặc bầu dục, đường kính nhỏ là 1mm, tới lớn là 2 cm. nếu có vẩy thì vẩy đen, cứng phủ trên một nốt sẩn có gờ cứng. Nếu vẩy đã bong thì để lại vết loét lõm, màu đỏ tươi, sạch không tiết dịch, không có mủ. bệnh nhân không hề biết có vết loét vì hoàn toàn không đau, không ngứa, không tức, rát. Vào tuần thứ 3 thì vết loét liền, da trở lại bình thường.

-Hạch to: có 2 loại hạch to: Viêm hạch khu vực nguyên phát và viêm hạch toàn thân thứ phát.

Xem thêm: Hội Chứng Stockholm Syndrome Là Gì ? Vì Sao Ta Yêu Người Bạo Hành Mình?

– Ban: xuất hiện ở cuối tuần một và đầu tuần 2 của bệnh. Thường là ban dát sẩn, kích thước từ hạt kê đến 1 cm đường kính. mọc khắp toàn thân (lưng, ngực, bụng, tứ chi) trừ lòng bàn tay, lòng bàn chân, khoảng 10% có ban xuất huyết. Ban tồn tại từ vài giờ tới một tuần.

+ Hội chứng về tim, mạch: rất hay gặp các tổn thương tim mạch trong bệnh sốt mò như:

– Dãn mạch làm da thường hồng hào, xung huyết kết mạc mắt với nhiều tia máu đỏ (đây là triệu chứng để phân biệt với sốt rét và thương hàn). Đôi khi có những trường hợp xuất huyết dưới da, chảy máu cam, xuất huyết đường tiêu hoá, ho ra máu…

– Hay có biểu hiện của viêm cơ tim: giờ tim mờ, ngoại tâm thu, huyết áp giảm.

+ Các triệu chứng về hô hấp: có thể gặp viêm phổi không điển hình hoặc viêm phế quản.

+ Triệu chứng ở các cơ quan khác:

– Về tiêu hoá: thường phân táo trong các ngày sốt, đôi khi có thể ỉa lỏng vài ngày, đau vùng thượng vị giống như viêm dạ dày nhưng các triệu chứng này thường hết khi khỏi bệnh. Gan và lách có thể to nhưng thường chỉ lấp ló bờ sườn, ít đau.

– Tiết niệu: có thể có protein trong nước tiểu, đôi khi có cả trụ hình nhưng chỉ thoáng qua.

CHẨN ĐOÁN

1. Tiêu chuẩn xác định bệnh:

a. Chỉ cần 1 tiêu chuẩn lâm sàng

– Sốt, vết loét đặc trưng,+/- hạch sưng đau, ban dát sẩn, bạch cầu 4.000 – 12.000, Lympho bình thường hoặc tăng, máu lắng tăng.

– Chỉ tiêu bắt buộc: phải có vết loét đặc trưng

b. Nếu không có vết loét đặc trưng, bắt buộc phải có một test sau đây dương tính: test IgM ELISA (xét nghiệm hấp phụ miễn dịch gắn men); hoặc test IFA (Xét nghiệm kháng thể miễn dịch huỳnh quang gián tiếp); hoặc test IIP (Xét nghiệm kháng thể miễn dịch peroxidase gián tiếp); riêng test nhanh RFA (Xét nghiệm thẩm thấu nhanh) chỉ có giá trị phát hiện định tính IgM, IgG, cho kết quả sau 15 phút, đọc bằng mắt thường, có thể dùng ở xã và thực địa. Một số xét nghiệm khác có giá trị nhưng phức tạp, chủ yếu dùng ở Viện nghiên cứu: phân lập Orientia tsutsugamushi; nhuộm soi kính hiển vi điện tử phát hiện vi khuẩn ở tế bào nuôi cấy; phản ứng PCR (phản ứng nhân chuỗi men polymerase).

c. Phản ứng Weil-Felix với kháng nguyên OXK, độ nhạy và độ đặc hiệu không cao nhưng rẻ tiền, vẫn có thể dùng ở tuyến huyện;

d.Test điều trị thử: để giải quyết sớm bệnh nhân nên dùng thử Tetracycline hay Chlorocid, chỉ có giá trị chẩn đoán nghi ngờ.

2. Chẩn đoán phân biệt:

– Bệnh do xoắn khuẩn: cũng có sốt, xung huyết, mắt đỏ, đau cơ, ban và hạch nhưng không có nốt loét đặc trưng, thường có xuất huyết dưới da.

– Thương hàn: cũng sốt kéo dài, li bì, mạch nhiệt phân ly nhưng đào ban rất thưa, bụng thường chướng, có óc ách hố chậu phải và không có nốt loét đặc trưng.

– Sốt Dengue: sốt thường kéo dài trung bình 6 – 7 ngày, nhưng ở Dengue cổ điển ban dát sẩn dày hơn, đau cơ khớp rõ hơn; ở Dengue xuất huyết ban xuất huyết hay xuất hiện khi sốt về bình thường, không có nốt loét đặc trưng .

– Sốt rét: tuy sốt rét tiên phát có sốt liên tục, nhưng rồi cũng chuyển vào cơn sốt chu kỳ với 3 giai đoạn rét – nóng – vã mồ hôi; không có nốt loét đặc trưng; ký sinh trùng sốt rét dương tính.

ĐIỀU TRỊ

1. Kháng sinh

– Kháng sinh thông dụng và có hiệu quả nhất với sốt mò là Chlorocid và Tetraxyclin dùng liều cao.Qua thực tế chống dịch sốt mò ở việt nam để cắt được sốt nhanh và chống tái phát, liều điều trị và cách dùng như sau: ngày đầu: 2 g/ngày (cho người ³ 50 kg). các ngày sau: 1g/ngày.Dùng tới khi cắt sốt 2-3 ngày; tổng liều là 6 đến 7 g (liều chlorocid và tetraxyclin đều giống nhau).

– Phối hợp chlorocid và tetraxyclin với liệu pháp corticoid: một số trường hợp sau khi dùng kháng sinh vài ngày nhiệt độ vẫn không thuyên giảm có thể dùng phối hợp với Cortancyl (nếu không có chống chỉ định).

2. Điều trị triệu chứng:

– Bổ sung nước – điện giải

– Trợ tim mạch

– An thần, hạ sốt (khi sốt cao).- Vitamin

– Điều trị bội nhiễm nếu có.

Xem thêm: Trường Đại Học Thủy Lợi, Đhtl ( Wru Là Trường Gì, Trường Đại Học Thủy Lợi

PHÒNG BỆNH

– Phát quang bụi rậm quanh nhà,

– Phun thuốc diệt mò, bẫy diệt chuột,- Khi đi vào vùng rừng núi hoặc vùng cây cối rậm rạp cần mặc quần áo dài tay có tất tay, tất chân che kín cơ thể. Không để quần áo hay nằm trên cỏ tránh ấu trùng mò bám vào.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *