TS. Lê Thẩm Dương, TS. Bùi Đan Thanh – Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh; Dương Văn Chí – Trường Cao đẳng Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Bài viết sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) để đo lường các nhân tố tác động đến chính sách cổ tức tiền mặt của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được nhóm tác giả thu thập từ các báo cáo tài chính của 102 doanh nghiệp giai đoạn từ 2011-2017.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, các nhân tố ảnh hưởng tích cực đến tỷ lệ chi trả cổ tức tiền mặt, đó là thu nhập trên mỗi cổ phần, khả năng thanh toán, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng doanh thu, nợ trên vốn chủ sở hữu có tác động tiêu cực đến tỷ lệ chi trả cổ tức.
Giới thiệu
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu đề cập tới chính sách cổ tức của doanh nghiệp (DN), nhưng các kết quả cho thấy, còn có nhiều sự khác biệt giữa nghiên cứu thực nghiệm và khung lý thuyết.
Đang xem: Các nhân tố Ảnh hưởng Đến việc hoạch Định chính sách cổ tức là gì
Ở Việt Nam, vấn đề ảnh hưởng của chính sách cổ tức tiền mặt của các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán tuy đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, song kết quả nghiên cứu định lượng đưa ra chưa nhiều, nguyên nhân là do các DN niêm yết thường có xu hướng chia cổ tức bằng cổ phiếu. Việc chia cổ tức bằng cổ phiếu là một hình thức giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư, không chia lợi nhuận cho cổ đông, nên làm cho các kết quả nghiên cứu không phản ánh chính xác.
Với mong muốn đưa ra một kết quả chính xác, có thể làm cơ sở khoa học cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách cổ tức tiền mặt; hỗ trợ nhà đầu tư trong quá trình đưa ra các quyết định đầu tư vào cổ phiếu của DN trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nhóm tác giả sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) để đo lường các nhân tố tác động đến chính sách cổ tức tiền mặt của các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được nhóm tác giả thu thập từ các báo cáo tài chính của 102 DN giai đoạn từ 2011-2017. Kết quả cho thấy, các nhân tố ảnh hưởng tích cực đến tỷ lệ chi trả cổ tức tiền mặt, đó là thu nhập trên mỗi cổ phần, khả năng thanh toán, thuế suất thuế thu nhập DN. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng doanh thu, nợ trên vốn chủ sở hữu có tác động tiêu cực đến tỷ lệ chi trả cổ tức.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý thuyết và khung phân tích
Các nhà nghiên cứu Miller và Modigliani (1961) đưa ra lý thuyết chính sách cổ tức không tương thích để nói về sự độc lập của chính sách cổ tức, nghĩa là chính sách cổ tức không có tác động đến giá cổ phiếu, lý thuyết này dựa trên những giả định không thực tế là không có thuế hay chi phí giao dịch. Nhưng trong thực tế không tồn tại thị trường hoàn hảo, mà luôn có bất cân xứng thông tin, dựa vào lý thuyết chính sách cổ tức tiền mặt cao.
Lintner (1956) và Gordon (1963) cũng cho rằng, nhà đầu tư thích tỷ lệ chi trả tiền mặt cao và thường đầu tư vào những DN có cổ tức cao, vì cổ tức tiền mặt ít rủi ro hơn lãi vốn trong tương lai.
Theo Jensen và Meckling (1976) việc thanh toán cổ tức có thể phục vụ để sắp xếp lại lợi ích các bên và giảm thiểu chi phí đại diện giữa nhà quản lý và các cổ đông, nhà đầu tư. Các nhà nghiên cứu cho rằng, luôn có khoảng cách về thông tin giữa các nhà quản lý và các nhà đầu tư, bởi nhà quản lý kiểm soát hoạt động của DN hàng ngày và nắm bắt nhiều thông tin nội bộ trong khi nhà đầu tư bên ngoài không tiếp cận được. Trong điều kiện bất cân xứng thông tin như vậy thì cổ tức là cách hiệu quả nhất để giao tiếp thông tin giữa DN và cổ đông.
Lintner (1956) và Gordon (1963) cho rằng, các nhà đầu tư đều rất e ngại rủi ro, không thích mạo hiểm điều đó lý giải vì sao họ thích cổ tức hiện tại và tăng trưởng ổn định hơn là trông chờ vào việc tăng giá cổ phiếu. Theo hai tác giả, cổ tức cung cấp một tín hiệu về sự phát triển của DN cho nhà đầu tư.
Xem thêm: Tự Học Ccna Bài 6: Vlan, Trunk Port Là Gì Và Cách Cấu Hình Nó Trên Switch
Nhà nghiên cứu Bhattacharyya (1979) cho rằng, các nhà quản trị có những thông tin mật về việc phân phối dòng tiền và họ phát đi tín hiệu vào thị trường thông qua việc lựa chọn mức chi trả cổ tức. Còn theo Black và Scholes (1974) dựa trên lý thuyết hiệu ứng nhóm khách hàng, nhà đầu tư khác nhau sẽ có những nhu cầu khác nhau và có xu hướng thích mua cổ phiếu của các DN thực hiện những chính sách cổ tức đáp ứng nhu cầu cụ thể của khách hàng.
Theo Bassam Jaara và cộng sự (2018), kiểm định các yếu tố quyết định chính sách cổ tức cho 100 DN phi tài chính ở Jordan trong giai đoạn 2005-2016. Kết quả cho thấy, quy mô của DN (SIZE) có tác động tích cực đáng kể đặc biệt là các DN lớn. Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), lịch sử chi trả cổ tức cũng có tác động tích cực, ngược lại rủi ro và có tác động tiêu cực đến việc chi trả cổ tức.
Farman Ali Khan & Nawaz Ahmad (2017) nghiên cứu xác định tác động của lợi nhuận (PROF) mà cụ thể là tỷ lệ ROE, cơ hội tăng trưởng, rủi ro chỉ số P/E (RISK), thanh khoản (LR), quy mô DN (FS), đòn bẩy tài chính (Leverage), thuế (Taxation) và hình thức kiểm toán (Audit Type) để đánh giá về các yếu tố quyết định chi trả cổ tức ở các DN tại Pakistan. Kết quả cho thấy, Audit Type, LR và ROE là yếu tố quyết định tích cực, cơ hội tăng trưởng là yếu tố quyết định tiêu cực đến việc chi trả cổ tức của các DN. Tuy nhiên, nghiên cứu này không tìm thấy bằng chứng cho thấy, các biến độc lập khác như Taxation, RISK, FS và Leverage ảnh hưởng đến quyết định chi trả cổ tức của các DN.
Áp dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng cho 30 DN từ Sở Giao dịch Chứng khoán Mauritius trong giai đoạn 2009-2013, Soondur, S. và cộng sự (2016) nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ tiêu cực giữa chính sách cổ tức với lợi nhuận giữ lại (Retained Earnings). Kết quả không tìm thấy mối liên hệ có ý nghĩa giữa thu nhập ròng (Net Income), thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS), tiền mặt (CASH), đòn bẩy tài chính (LVRG) với chính sách cổ tức. Mẫu nghiên cứu nhỏ chỉ có 150 quan sát và mới chỉ xem xét đến yếu tố nội tại của DN, mà chưa xem xét tác động của các yếu bên ngoài như: Thuế, lãi suất, lạm phát…
Tiếp tục phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức của các ngân hàng niêm yết bằng cách sử dụng phương pháp thực nghiệm, Yanqiong Zhong (2016) phân tích tình hình chi trả cổ tức của các ngân hàng niêm yết tại Trung Quốc dựa trên dữ liệu bảng từ năm 2010 đến 2013. Kết quả cho thấy, một số ngân hàng niêm yết không trả cổ tức hoặc chi trả nhưng tỷ lệ này nhỏ; tỷ lệ chi trả cổ tức của các ngân hàng thường thấp nhưng các ngân hàng do nhà nước kiểm soát thường có tỷ lệ cao hơn; EPS và thanh khoản của tài sản có ảnh hưởng tích cực đến tỷ lệ chi trả cổ tức, mức nợ có tác động tiêu cực đến tỷ lệ chi trả cổ tức. Mặt khác, khả năng tăng trưởng và khả năng hoạt động không có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ chi trả cổ tức; mẫu nghiên cứu cũng nhỏ chỉ có 16 ngân hàng với 64 quan sát.
Nhằm tìm ra các yếu tố quyết định tỷ lệ chi trả cổ tức của các DN, Kartal Demirgunes (2015) nghiên cứu hoạt động trong ngành sản xuất phi kim loại (xi măng) niêm yết trên sàn chứng khoán Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 2002-2012. Theo đó, nhóm tác giả đánh giá tác động ngắn hạn và dài hạn của các yếu tố liên quan như: PROF, CASH, tăng trưởng (GR), RISK, giá thị trường trên giá sổ sách (MBVR) và thuế thu nhập DN (CTAX) đến tỷ lệ chi trả cổ tức. Kết quả thực nghiệm cho thấy, về lâu dài các yếu tố như: PROF, GR có ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ chi trả cổ tức; trong khi, các yếu tố liên quan đến RISK và MBVR có ý nghĩa thống kê và ảnh hưởng tích cực đến tỷ lệ chi trả cổ tức. Bên cạnh đó, PROF trong ngắn hạn, có ý nghĩa thống kê và ảnh hưởng tích cực đến tỷ lệ chi trả cổ tức. Ngoài ra, bài viết không tìm thấy ý nghĩa thống kê của CASH và CTAX đến tỷ lệ chi trả cổ tức và không gian sử dụng cũng tương đối nhỏ chỉ có 17 DN.
Saghir Ahmed & Hasan Murtaza (2015), nghiên cứu được thực hiện để làm nổi bật các yếu tố quyết định chi trả cổ tức và phân tích tác động của sự thay đổi cổ tức đối với tăng trưởng của DN trong tương lai ở Pakistan. Quy mô công ty (FZ), LR, PROF, LVRG và EPS được sử dụng như biến độc lập trong khi tỷ lệ chi trả cổ tức được lấy làm biến phụ thuộc. Phát triển thêm ở nghiên cứu này là tỷ lệ chi trả cổ tức được lấy như biến độc lập và tăng trưởng của công ty (CG) là biến phụ thuộc để kiểm tra tác động của tỷ lệ chi trả cổ tức đối với tăng trưởng của DN trong tương lai. Số liệu thống kê mô tả và phương pháp bình phương nhỏ nhất được áp dụng. Phần mềm E-views được sử dụng để xử lý dữ liệu thứ cấp từ năm 2003-2011 liên quan đến 38 DN được chọn từ 4 lĩnh vực khác nhau. Kết quả cho thấy, có mối quan hệ đáng kể tích cực giữa LR ngành xi măng, EPS ở ngành Năng lượng, LVRG ở ngành Năng lượng, FZ và PROF ở ngành Đường với tỷ lệ chi trả cổ tức. Đặc biệt, EPS ở ngành Đường có quan hệ tiêu cực với tỷ lệ chi trả cổ tức. Nghiên cứu cũng tìm thấy rằng, có mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ chi trả cổ tức và CG trong tương lai. Mặt khác, nghiên cứu này chưa đánh giá tác động ngược lại của tăng trưởng đến tỷ lệ chi trả cổ tức ở 4 ngành được khảo sát.
Xem thêm: Sản Phẩm Động Vật Là Gì ???
Phương pháp nghiên cứu
Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu này là dữ liệu dạng bảng, được thu thập chủ yếu từ các báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong 7 năm từ 2011 – 2017 của 102 DN niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam (714 quan sát).