Nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với các trường đại học, trong đó đội ngũ nòng cốt chính là giảng viên và nghiên cứu viên. Một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên nói riêng và của một trường đại học nói chung trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay là số công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí trong nước và quốc tế có uy tín. Bài viết tập trung chia sẻ một số thông tin, kinh nghiệm chuẩn bị cho quá trình công bố quốc tế, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khoa học xã hội và dành cho những giảng viên, nghiên cứu viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Ngoài ra, tác giả cũng hướng đến thảo luận một số giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn và tăng cường số lượng các công bố quốc tế có chất lượng trong thời gian tới.

*

1. Danh mục các tạp chí quốc tế có uy tín

– Lựa chọn tạp chí quốc tế có uy tín để nghiên cứu, tìm hiểu và gửi bài

Để chuẩn bị cho quá trình công bố các công trình nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế có uy tín, việc đầu tiên và quan trọng là các tác giả cần tìm hiểu danh mục các tạp chí khoa học được công nhận và đặc biệt là danh mục các tạp chí quốc tế có uy tín. Trên cơ sở danh mục tra cứu được đối với lĩnh vực, ví dụ như khoa học xã hội, nhà nghiên cứu tiếp tục tìm đến các tạp chí phù hợp về chuyên ngành chuyên sâu, nội dung nghiên cứu để lựa chọn gửi bài về tạp chí. Bước cân nhắc cuối cùng là đánh giá chất lượng bài viết phù hợp với tạp chí nào trong số những tạp chí phù hợp về chuyên môn. Để đánh giá chính xác, tác giả cần đọc tham khảo các bài viết gần nhất đã công bố trên tạp chí đó, đặc biệt có thể dựa vào chỉ số ảnh hưởng IF (impact factor) để đánh giá mức độ yêu cầu khắt khe của tạp chí. Như vậy, các tác giả mới bắt đầu tìm hiểu về công bố quốc tế cần phân biệt và nắm bắt: mã số ISSN, danh mục Scopus và ISI, chỉ số ảnh hưởng IF (impact factor) và số lần trích dẫn (citation index).Bạn đang xem: Issn là gì

– ISSN cho các tạp chí và mối quan hệ với danh mục tạp chí quốc tế có uy tín (ISI và Scopus)

ISSN là viết tắt của “International Standard Serial Number”, được xem là mã số chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ, là “thẻ căn cước” để đi lại trong “làng” thông tin toàn cầu. Khi một tạp chí được cấp mã số ISSN thì nó có thể được tra cứu trên hệ thống cơ sở dữ liệu ISSN quốc tế. Tại Việt Nam, từ ngày 11.3.2005, UNESCO chính thức chấp nhận Việt Nam là quốc gia thành viên của Mạng lưới ISSN quốc tế, được tổ chức thực hiện việc đăng ký và cấp mã số chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ trên lãnh thổ Việt Nam. Đơn vị trực tiếp được chỉ định và chịu trách nhiệm nhận đăng ký mã số ISSN tại Việt Nam là Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Về điều kiện đăng ký mã số, mã số ISSN không liên quan đến chất lượng của tạp chí, mà chỉ có giá trị là “thẻ căn cước” trong hệ thống thông tin toàn cầu, sử dụng để tra cứu về nguồn gốc tạp chí, lịch sử phát hành, đơn vị chịu trách nhiệm xuất bản. Cụ thể về điều kiện đăng ký và duy trì mã số ISSN, các tác giả có thể tìm hiểu thêm tại trang web của Cục Thông tin khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ (1).

Đang xem: Chỉ số issn là gì, Đăng ký mã số issn

Vậy mã số ISSN có liên quan gì đến danh mục tạp quốc tế uy tín Scopus và ISI? Không phải tất cả các tạp chí có mã số ISSN đều nằm trong danh mục tạp chí quốc tế uy tín hiện nay như danh mục Scopus và ISI, trong khi các tạp chí trong danh mục Scopus và ISI đều sở hữu riêng mã số ISSN. Do vậy, số lượng tạp chí có mã số ISSN sẽ lớn hơn khá nhiều so với số lượng tạp chí trong danh mục ISI và Scopus. Theo thống kê hiện tại có khoảng 1,3 triệu tạp chí khoa học quốc tế đã được cấp mã số ISSN, trong đó chỉ có khoảng 10.000 tạp chí trong số này thuộc danh mục ISI và được xem là những tạp chí có uy tín thế giới hiện nay (2). Hơn nữa, khoảng 70% tạp chí có trong danh mục ISI cũng nằm trong danh mục Scopus.

Có thể minh hoạ mối quan hệ giữa danh mục ISI, Scopus và ISSN như sau:

ISI – Viện Thông tin khoa học Mỹ (Institute for Scientific Information) – đã tham gia xét chọn chất lượng của các tạp chí trên thế giới một cách khắt khe, chặt chẽ với tính chuyên môn và khoa học cao. Mặc dù có thể còn nhiều tranh luận, nhưng đây là danh mục được nhiều nước công nhận và lấy đó làm tiêu chí để đánh giá chất lượng khoa học. ISI bao gồm tập hợp các tạp chí trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ (SCI, SCIE), khoa học xã hội (SSCI) và khoa học nhân văn và nghệ thuật (AHCI). Để có thể tra cứu một tạp chí có nằm trong danh mục ISI không, có thể vào đường link dưới đây và sử dụng các công cụ tra cứu (tra cứu theo tên tạp chí, tra cứu theo mã số ISSN) (3).

– Danh sách các tạp chí quốc tế thuộc nhóm SCI (Science Citation Index)

http://www.thomsonscientific.com/cgi-bin/jrnlst/jlresults.cgi?PC=K

– Danh sách các tạp chí quốc tế thuộc nhóm SCIE (Science Citation Index Expanded)

http://www.thomsonscientific.com/cgi-bin/jrnlst/jlresults.cgi?PC=D

– Danh sách các tạp chí quốc tế thuộc nhóm Khoa học xã hội SSCI (Social Sciences Citation Index)

http://www.thomsonscientific.com/cgi-bin/jrnlst/jlresults.cgi?PC=J

– Danh sách các tạp chí quốc tế thuộc nhóm Nghệ thuật và Nhân văn A&HCI (Arts and Humanities Citation Index)

http://ip-science.thomsonreuters.com/cgi-bin/jrnlst/jlresults.cgi?PC=H

– Tổng danh mục ISI: http://www.isi-thonsomreuters.org/au.php

Danh mục Scopus cũng là danh mục tạp chí có uy tín với các xét duyệt nghiêm ngặt được xây dựng từ 2004 và thuộc sở hữu của Nhà xuất bản Elsevier (Hà Lan). Như đã đề cập, khoảng 70% danh mục tạp chí ISI có trong Scopus và chỉ bao gồm các bài báo từ năm 1995 trở lại đây.

Để tra cứu các bài báo có thuộc danh mục Scopus hay không, có thể vào trang web với đường liên kết sau:

Danh sách các tạp chí thuộc SCOPUS:

http://www.scimagojr.com/ hoặc

https://www.elsevier.com/solutions/scopus/content

Trong danh mục ISI và Scopus, một tạp chí có sức ảnh hưởng hay không, còn phụ thuộc vào một số chỉ số: chỉ số ảnh hưởng IF, số lượt xem/tải tạp chí, và phân nhóm các tạp chí ở mức có uy tín hay ảnh hưởng cao thấp khác nhau.

Bên cạnh đó, các tác giả có thể tham khảo danh mục tạp chí quốc tế có uy tín trong lĩnh vực khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội của quỹ NAFOSTED, liên quan đến xin các tài trợ nghiên cứu khoa học từ quỹ này tham khảo tại đường liên kết tài liệu:

Thông báo về việc công bố Danh mục tạp chí quốc tế và quốc gia có uy tín trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn

http://pkhcn.duytan.edu.vn/media/22890/31_qd_hdqlq-2016-1.pdf

Như vậy, nếu muốn đăng bài viết trong nhóm các tạp chí ISI hay Scopus, các tác giả nên tìm hiểu một số tạp chí chuyên ngành nghiên cứu của bản thân, tìm kiếm những tạp chí phù hợp, nghiên cứu, đọc các bài công bố trong tạp chí đó và xác định tạp chí phù hợp nhất để công bố kết quả nghiên cứu của bản thân. Bên cạnh đó cũng có thể tư vấn thêm những nhà khoa học cùng lĩnh vực đã có những công bố trên các tạp chí quốc tế để có thêm thông tin quyết định hợp lý.

2. Ngôn ngữ học thuật và hình thức, bố cục bài viết

Bài viết công bố quốc tế cần được viết bằng ngôn ngữ học thuật và hàn lâm. Do vậy, đây có thể là khó khăn đối với một số tác giả chưa trải qua quá trình học tập và nghiên cứu chuyên ngành tại nước ngoài. Tuy nhiên, việc thường xuyên đọc sách nghiên cứu và các bài báo khoa học quốc tế bằng ngoại ngữ sẽ hỗ trợ cho nhóm tác giả có được vốn từ và cách viết phù hợp. Các tác giả nên viết trực tiếp bằng tiếng Anh hay ngôn ngữ nước ngoài tạp chí sử dụng với cách tư duy ngôn ngữ nước ngoài thay cho việc viết bằng tiếng Việt để dịch ra. Ngôn ngữ học thuật và hàn lâm đòi hỏi người viết am hiểu chuyên ngành hẹp mà họ bàn luận trong bài viết, sử dụng đúng thuật ngữ, khái niệm, phạm trù khoa học, các lý thuyết trong lĩnh vực nghiên cứu. Bên cạnh việc tự chỉnh sửa, tác giả hoặc nhóm tác giả cũng nên nhờ người nước ngoài có trình độ phù hợp hiệu đính lại.

Thứ hai là thể thức trình bày bài viết, cấu trúc bài viết, các yêu cầu trích dẫn trong bài viết. Mỗi một tạp chí có thể có những yêu cầu khác nhau, do vậy việc tìm hiểu kỹ yêu cầu trên trang web của tạp chí là việc rất cần thiết. Thông thường, các tạp chí quốc tế có chất lượng đều có trang web chỉ dẫn rõ ràng về yêu cầu bài viết, hình thức, cấu trúc, trích dẫn, tài liệu tham khảo, đồng thời bao gồm cả hướng dẫn về cách thức tạo tài khoản nộp bài cho tạp chí trực tuyến.

Thông thường, một công trình nghiên cứu công bố trên tạp chí quốc tế bao gồm các phần cụ thể sau:

Tiêu đề bài viết (Title): Một câu mô tả ngắn gọn nhưng cô đọng và chính xác nhất vấn đề chính mà nghiên cứu bàn tới.

Tóm tắt nội dung (Abstract): tóm tắt ngắn gọn nội dung và kết quả chính của công bố, tuỳ từng tạp chí sẽ có yêu cầu về độ dài, ngắn khác nhau, 300 hoặc 500 chữ hoặc hơn. Các nội dung có thể mô tả cô đọng trong tóm tắt: mục đích nghiên cứu, thời gian, không gian, khách thể nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, thu thập thông tin, kết quả chính.

Mở đầu (Introduction): Đặt vấn đề về lý do nghiên cứu, tầm quan trọng của vấn đề cùng với các dẫn chứng, tổng quan tài liệu nghiên cứu có liên quan đến vấn đề, cơ sở lý luận, lý thuyết bàn luận về vấn đề, các nghiên cứu đã từng tiến hành ở các mốc thời gian, các quốc gia, khu vực bàn về vấn đề ở các góc độ, khía cạnh tiếp cận khác nhau, những nhận thức chung về vấn đề, phát hiện về vấn đề có liên quan đã được đưa ra bàn luận. Trên cơ sở đó, tác giả nêu rõ hướng nghiên cứu, phân tích của cá nhân/nhóm, hướng tiếp cận nghiên cứu vấn đề, mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu: Đây cũng là phần chính cần được tác giả đầu tư và thường phải đề cập đến nếu là nghiên cứu khoa học. Thông thường tác giả sẽ phải trình bày phương pháp nghiên cứu cơ bản, lý do lựa chọn phương pháp phù hợp để thu thập thông tin, phương pháp chọn mẫu, cỡ mẫu, thiết kế nghiên cứu (các biến số, giả thuyết nghiên cứu), chiến lược thu thập thông tin.

Phần nội dung/ thân bài (Main body): Phân tích trình bày các kết quả chính có được thông qua phân tích số liệu, dẫn chứng trả lời câu hỏi nghiên cứu, chứng minh các giả thuyết đặt ra.

Thảo luận/bàn luận về kết quả nghiên cứu (Discussion): Thảo luận về kết quả nghiên cứu trong một bối cảnh rộng hơn: so sánh kết quả nghiên cứu với các công trình có liên quan, bàn luận về những phát hiện chung về kiến thức/tri thức trong khuôn khổ chủ đề nghiên cứu, sự khác biệt, điểm mới trong phát hiện nghiên cứu, những kết quả chưa chắc chắn, còn hoài nghi cần tiếp tục nghiên cứu để có thêm căn cứ, những bằng chứng, phát hiện củng cố chắn chắn hơn cho những hoài nghi ở các nghiên cứu trước đặt ra. Rộng hơn, nghiên cứu có thể bàn luận giữa kết quả thực nghiệm, thực tiễn và các đúc kết lý thuyết có liên quan, làm phong phú hơn lý thuyết đã có hay bổ sung thêm, phát triển thêm những lý thuyết mới.

Kết luận (Conclusion): Tổng kết lại những phát hiện chính của bài viết, những giới hạn/hạn chế của nghiên cứu nếu có, gợi mở những vấn đề có thể tiếp tục nghiên cứu.

Lời cảm ơn (Acknowledgements): Cảm ơn các cá nhân hay tổ chức hỗ trợ trong quá trình nghiên cứu, viết bài: những cá nhân hỗ trợ thu thập thông tin, cá nhân, tổ chức tài trợ kinh phí nghiên cứu, những chuyên gia đưa ra lời khuyên, tư vấn trong quá trình tiến hành nghiên cứu.

Tài liệu tham khảo (References): Tài liệu được trích dẫn hay tham khảo thông tin được sắp xếp hay liệt kê theo yêu cầu chi tiết hướng dẫn của mỗi tạp chí cụ thể. Có thể sử dụng một số phần mềm hỗ trợ, quản lý quá trình trích dẫn bổ ích như: EndNote & Bibtex. Lưu ý, số lượng tài liệu tham khảo thể hiện một phần chất lượng bài viết, nó cho thấy bề dày nghiên cứu sâu vấn đề tác giả đang bàn đến trong bài viết,

3. Chất lượng bài viết và quá trình phản biện

Chất lượng nội dung công bố có thể được tạp chí dựa trên một số yếu tố sau:

Công trình được công bố thường phải là công trình nghiên cứu có quy mô, có ảnh hưởng ở mức độ nhất định, có độ tin cậy cao, có phương pháp nghiên cứu khách quan, phù hợp và đặc biệt có đóng góp những cái mới cho sự phát triển khoa học. Công trình đó có thể là nghiên cứu ở cấp độ quốc gia, tỉnh/thành phố hay là nghiên cứu trường hợp, nhưng quan trọng là nghiên cứu những vấn đề có tính mới và có phương pháp nghiên cứu khoa học, thể hiện độ tin cậy cao. Nghiên cứu cần có luận chứng về phương pháp luận, cơ sở lý thuyết, phương pháp nghiên cứu và phương pháp thu thập thông tin phù hợp nhằm trả lời cho câu hỏi nghiên cứu, có thiết kế nghiên cứu tốt và chuẩn mực để thông tin thu được có độ tin cậy cao. Thông thường, việc luận chứng về thiết kế nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, phương pháp thu thập thông tin, mẫu nghiên cứu nếu có áp dụng trong nghiên cứu là một trong những phần bắt buộc cần trình bày trong bài báo khoa học, trừ những công bố mang tính tổng quan nghiên cứu hay những bàn luận, phát triển lý thuyết nghiên cứu. Bên cạnh đó, quá trình nghiên cứu cần minh bạch, thông tin, dữ liệu thu thập được cần khách quan và có khả năng kiểm chứng. Cái mới của công trình nghiên cứu khoa học xã hội nhiều khi không rõ ràng như khoa học tự nhiên, nhưng cũng cần được tác giả luận giải trong bài viết: mới trong phương pháp nghiên cứu, mới trong xây dựng lý thuyết từ thực tiễn, mới trong phát hiện từ kết quả nghiên cứu …

Xem thêm: Soft Swing Là Gì – Văn Hóa Some&Swing Chân Chính

Chất lượng bài viết sẽ được đánh giá thông qua các ý kiến của phản biện. Vượt qua được các vòng phản biện và được chấp nhận, khi đó chất lượng bài viết đáp ứng được yêu cầu của tạp chí và sẽ được cân nhắc công bố. Sau khi bài viết được gửi đến tạp chí, nếu đạt được bước kiểm duyệt đầu tiên là hình thức, bố cục, tài liệu tham khảo, trích dẫn sẽ được chuyển đến các phản biện phù hợp, thông thường sẽ là hai phản biện. Các phản biện làm việc hết sức trách nhiệm, kỹ lưỡng. Họ có thể sẽ yêu cầu giải trình hoặc bổ sung những nội dung, những điểm chưa rõ trong bài viết, họ cũng đặt ra những câu hỏi yêu cầu các tác giả giải trình làm rõ những thông tin, số liệu, cách tính toán số liệu, những lập luận mà chưa rõ căn cứ, bổ sung thêm các thông tin, số liệu được cho là cần thiết. Tác giả bài viết phải có nhiệm vụ giải trình có trách nhiệm, chi tiết những yêu cầu của cả hai phản biện. Phản biện có thể yêu cầu tác giả: chỉnh sửa, giải trình về các thông tin cung cấp, giải trình và xem xét những số liệu, thông tin chưa logic hoặc chưa hợp lý, thậm chí bổ sung thông tin, dữ liệu nếu chưa đủ thuyết phục. Sau mỗi lần giải trình, mỗi phản biện sẽ lại xem xét lại tổng thể, tiếp tục đưa ra những câu hỏi, những vấn đề họ còn băn khoăn hoặc thông tin, bằng chứng, dữ liệu nếu chưa đảm bảo hoặc chưa thống nhất. Quá trình giải trình đáp ứng yêu cầu phản biện chỉ dừng lại khi phản biện hài lòng với những bằng chứng minh bạch được tác giả đưa ra, những lập luận hợp lý, có căn cứ khoa học của tác giả để tổng thể bài công bố đạt chất lượng và đáp ứng tiêu chí của mỗi tạp chí. Kể cả một số yêu cầu của phản biện nhưng tác giả không sửa hay không thay đổi hoặc bổ sung thêm nhưng cũng cần được tác giả giải trình lý do cho các quyết định đó. Quá trình giải trình phản biện có thể xem là một cuộc “đối thoại tri thức”, qua đó cùng học hỏi, và hướng đến nâng cao chất lượng bài viết, chịu trách nhiệm về thông tin công bố trước khi đưa đến với cộng đồng các nhà khoa học trên toàn thế giới. Thông thường, đối với những bài báo gửi đăng trên các tạp chí uy tín trong hệ thống ISI hay Scopus, thời gian phản biện có thể kéo dài từ 6 tháng đến hơn 1 năm. Do vậy thời gian để được chấp thuận đăng tải từ khi gửi bài có thể mất hơn 1 năm (4). Tạp chí càng uy tín, tỉ lệ bài viết được gửi đến bị từ chối càng cao, thậm chí có thể lên đến trên 50% số lượng các bài viết gửi đến. Theo GS. Nguyễn Văn Tuấn, có một số lý do cơ bản khiến bài viết bị từ chối công bố trên tạp chí quốc tế là:

– Thứ nhất và quan trọng nhất là thiếu cái mới, đây là nguyên nhân hàng đầu (80% tổng số các bài từ chối do thiếu cái mới), đặc biệt những tạp chí hàng đầu như Science và Nature.

– Thứ hai là về phương pháp nghiên cứu: phương pháp được xem là bộ xương của bài viết, có ý kiến cho rằng đọc phương pháp có thể đánh giá đẳng cấp của nghiên cứu. Nếu phương pháp không thuyết phục, không có cơ sở, không khoa học cũng dễ bị từ chối.

– Thứ ba: bao gồm các yếu tố như trình bày và phân tích dữ liệu, tiếng Anh và nội dung bài viết không thích hợp cho tập san, không phải trọng tâm của tạp chí (5).

Một số các nghiên cứu ở các lĩnh vực có liên quan đến con người, cộng đồng, ví dụ như nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội học, tâm lý, văn hoá, tôn giáo, quyền con người, đa số các tạp chí quốc tế trong danh mục ISI/Scopus đều yêu cầu chứng minh nghiên cứu đã trải được phê duyệt đạo đức trong nghiên cứu. Nghiên cứu chỉ được công bố nếu minh chứng được đã qua phê duyệt đạo đức và kết quả nghiên cứu không làm ảnh hưởng đáng kể tâm lý, sức khoẻ, sự phát triển hoặc khiến làm lộ thông tin cần bảo vệ của đối tượng nghiên cứu, đồng thời hội đồng cũng yêu cầu tác giả cần có biện pháp để bảo vệ đối tượng nghiên cứu trong thời gian tiến hành nghiên cứu và sau khi nghiên cứu được công bố và phải được đáp ứng trong quá trình tiến hành nghiên cứu.

Ngoài ra, khi có dự định công bố quốc tế, trong dự trù nghiên cứu của tác giả hay nhóm tác giả nên có dự trù kinh phí cho quá trình đăng tải: chi phí hiệu đính ngôn ngữ, chi phí xuất bản. Một số tạp chí không mất chi phí xuất bản hay đăng tải, nhưng cũng có một số tạp chí sẽ yêu cầu đóng góp một phần chi phí phản biện và đăng tải, thông tin này thường được các tạp chí công bố minh bạch ngay trên trang web của mình.

Bên cạnh những yếu tố cơ bản trên, thực tế mỗi chuyên ngành, mỗi lĩnh vực chuyên sâu có thể có những yêu cầu và những khó khăn riêng trong quá trình công bố. Việc tác giả tham khảo ý kiến những nhà nghiên cứu đã có nhiều kinh nghiệm công bố quốc tế trong lĩnh vực của mình sẽ góp phần giúp cho quá trình phê duyệt để công bố được suôn sẻ.

4. Một số đề xuất nhằm tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học hướng đến công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín

Để khuyến khích và thúc đẩy quá trình công bố quốc tế trong đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu của Học viện Báo chí Tuyên truyền cũng như trong toàn hệ thống Học viện, tác giả đưa ra một số gợi ý về giải pháp như sau:

– Thứ nhất, Ban Quản lý khoa học và các đơn vị nên bắt đầu bằng việc phổ biến danh mục tạp chí quốc tế thuộc ISI và Scopus để cán bộ nghiên cứu cùng tìm hiểu và lựa chọn danh mục những tạp chí thuộc chuyên ngành hay chuyên ngành gần của từng viện nghiên cứu, khoa, bộ môn. Trên cơ sở đó, cán bộ, giảng viên bắt đầu quá trình tìm hiểu và lựa chọn những tạp chí phù hợp với từng khoa, viện nghiên cứu, tổ bộ môn và chuyên môn của từng nhà nghiên cứu.

– Thứ hai, để trở thành tác giả của các bài báo khoa học trên tạp chí quốc tế trong tương lai, trước hết, nhà nghiên cứu cần trở thành độc giả của các tạp chí phù hợp với chuyên ngành nghiên cứu. Việc đọc thường xuyên các công trình mới công bố trong lĩnh vực học thuật có liên quan sẽ giúp cho các nhà khoa học trau dồi thêm vốn ngoại ngữ chuyên ngành, biết về cấu trúc bài viết và quan trọng là bồi đắp và cập nhật thường xuyên kiến thức chuyên môn của đồng nghiệp trên toàn thế giới. Tư liệu đó có thể bước đầu được sử dụng trích dẫn, tổng quan cho các nghiên cứu của tác giả, sử dụng cho các công bố trên tạp chí trong nước, và tiến tới chuẩn bị cho các công bố quốc tế.

– Thứ ba, Trung tâm Thông tin Khoa học cần tham mưu, đề xuất với lãnh đạo Nhà trường xem xét việc hợp tác và mua quyền truy cập trực tuyến một số tạp chí quốc tế uy tín và cần thiết cho các chuyên ngành đào tạo chuyên sâu tại Học viện để các cán bộ, giảng viên, học viên và sinh viên có cơ hội tiếp cận thường xuyên với các công trình công bố mới trong lĩnh vực học tập và nghiên cứu cụ thể. Thực tế có rất nhiều tạp chí quốc tế trong danh mục ISI/Scopus không miễn phí mà yêu cầu trả phí, dẫn đến những rào cản lớn trong quá trình tiếp cận và cập nhật thông tin khoa học có chất lượng được đăng tải. Hy vọng trong tương lai không xa, giảng viên, cán bộ nghiên cứu trong Học viện có thể truy cập đọc, nghiên cứu cứu tạp chí quốc tế từ thư viện điện tử của Học viện.

– Thứ tư, chú ý đến tăng cường sự tham gia của cán bộ, giảng viên có khả năng vào các nghiên cứu có đầu tư và có quy mô tại hệ thống Học viện, vì chỉ khi tham gia vào nghiên cứu có chất lượng mới có cơ sở để tiến tới có được công trình công bố các bài báo khoa học có chất lượng. Có thể cần tính đến cơ chế tuyển công khai thành viên đạt tiêu chuẩn và có tiềm năng công bố quốc tế tham gia vào các đề tài nghiên cứu có quy mô tại hệ thống Học viện, với những khuyến khích và tiến tới là ràng buộc yêu cầu công bố quốc tế đối với các nghiên cứu này.

– Thứ năm, hướng đến phát triển mạnh hợp tác quốc tế trong các nghiên cứu hướng đến công bố quốc tế. Những hợp tác này sẽ giúp cán bộ học hỏi và cùng tham gia vào nghiên cứu với các nhóm chuyên gia quốc tế có kinh nghiệm, để từ đó có những sản phẩm công bố quốc tế với sự trợ giúp của chuyên gia quốc tế đã có nhiều kinh nghiệm công bố trên các tạp chí quốc tế.

– Thứ sáu, Ban Quản lý khoa học cần chú trọng hơn đến phát triển các giải pháp tăng công bố quốc tế, trong đó có nghiên cứu kinh nghiệm của các trường đại học khác ở một số điểm sau

+) Thành lập các nhóm nghiên cứu khoa học hướng đến công bố quốc tế

+) Xây dựng quy chế khen thưởng về tinh thần và vật chất phù hợp cho các cá nhân có các công bố quốc tế có giá trị.

+ Xây dựng quy chế chi tiêu có liên quan đến các chi phí dành cho công bố quốc tế, tham dự các hội thảo có công bố quốc tế.

+) Xây dựng quỹ phát triển khoa học trẻ: khuyến khích hỗ trợ các giảng viên, nghiên cứu viên trẻ có đủ năng lực tham gia chủ động vào các nghiên cứu có định hướng công bố quốc tế.

Bên cạnh những giải pháp nói trên, mỗi giảng viên, nhà nghiên cứu cần chủ động tìm hiểu để chuẩn bị kiến thức, kỹ năng cần thiết, trau dồi trình độ đáp ứng yêu cầu tham gia vào các nghiên cứu khoa học có chất lượng, chủ động chuẩn bị cho các công bố quốc tế trong tương lai.

Xem thêm: Xslt Là Gì ? Phần Mềm & Cách Mở File Xslt Là File Gì

(1) Bộ Khoa học và công nghệ quốc gia, Đăng ký và cấp mã số chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ (ISSN), tại trang: http://www.vista.gov.vn/Default.aspx?tabid=129&IntroId=282&temidclicked=282&language=vi-VN

(2) Trần Văn Nhung, “Một vài thông tin về mã số chuẩn quốc tế cho tạp chí và sách, về sự phân loại tạp chí khoa học và cách trình bày một bài báo trong tạp chí khoa học”, Tài liệu hướng dẫn xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm 2016, Nxb Bách khoa, Hà Nội.

(3) Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam, Tạp chí thuộc danh mục ISI (Institute for Scientific Information, Hoa Kỳ), tại trang: http://gust.edu.vn/vn/html/tap-chi-danh-muc-isi

(4) (5) Nguyễn Văn Tuấn, Công trình nghiên cứu được tạp chí Quốc tế kiểm duyệt thế nào, Vnexpress số ngày 24.3.2018, tại trang: https://vnexpress.net/khoa-hoc/cong-trinh-nghien-cuu-duoc-tap-chi-quoc-te-kiem-duyet-the-nao-3725008.html

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *