Chúng ta sẽ phải đợi một thế hệ trẻ ở Trung Quốc lớn lên và thay đổi hành vi tiêu dùng, thì mới có thể tháo được ngòi nổ của những khu chợ “wet market”.
Đang xem: Wet market là gì, chợ truyền thống singapore 'khoác Áo mới'
Trung Quốc hiện đang tiếp tục có những động thái rất quyết liệt trong nỗ lực ngăn chặn dịch bệnh Covid-19 gây ra bởi chủng virus corona mới SARS-CoV-2. Đài Truyền hình Trung Ương nước này cho biết Ủy ban thường vụ Nhân đại toàn quốc (Quốc hội Trung Quốc) đã ban hành lệnh cấm chính thức và hoàn toàn đối với hoạt động buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã.
Theo Nhân dân Nhật báo, các động vật hoang dã bị cấm sẽ bao gồm các loài động vật đã được quy định trong Luật bảo vệ Động vật hoang dã và các luật khác, bây giờ sẽ mở rộng sang toàn bộ động vật hoang dã trên cạn, bao gồm cả động vật hoang dã được nuôi nhốt.
Báo cáo cho biết lệnh cấm sẽ có hiệu lực ngay lập tức từ ngày 24/2. Dự báo cho biết nó sẽ ảnh hưởng lên một thị trường trị giá520 tỷ Nhân dân tệ (tương đương 74 tỷ USD) trong đó có hơn 14 triệu người lao động.
Ngoài nuôi để lấy da và lông phục vụ công nghiệp, động vật hoang dã từng được tiêu thụ công khai như thực phẩm trong nhiều khu chợ ở Trung Quốc. Bản thân những khu chợ này cũng là một vấn đề lớn.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết hơn 75% các dịch bệnh trong quá khứ đều bắt nguồn từ động vật. Mặc dù còn có những tranh cãi về nguồn gốc, nhưng nghiên cứu cho thấy dịch Covid-19 rõ ràng là có liên quan đến một khu chợ hải sản ở Vũ Hán. 27 trong số 41 bệnh nhân nhiễm virus đầu tiên được xác định là đã đến thăm khu chợ này.
Trung Quốc đã từng ra lệnh đóng cửa các khu chợ ẩm ướt của mình vào năm 2003, sau khi dịch SARS bùng phát để chuyển hoàn toàn sang mô hình siêu thị và cửa hàng thực phẩm như các nước Phương Tây. Đáng tiếc sau đó 17 năm, nỗ lực vẫn chưa được thực hiện thành công.
Rõ rằng, đóng cửa chợ là một bài toán cực kỳ khó giải quyết ở Trung Quốc, bởi chợ từ lâu đã trở thành một mô hình thương mại ăn sâu vào nền kinh tế, hoạt động sản xuất nông nghiệp và cả chính sách phân phối đất đai canh tác của nước này.
Trong bối cảnh đó, lệnh cấm buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã được các chuyên gia đánh giá là một giải pháp hợp lý hơn nhưng cũng không kém phần quyết liệt và đòi hỏi một sự hi sinh lớn.
Quá tam ba bận, từ dịch SARS năm 2003, đến dịch cúm gia cầm năm 2013 và bây giờ là Covid-19, Trung Quốc chắc chắn sẽ phải xây dựng các biện pháp để giải quyết tận gốc những khu chợ ẩm ướt trên khắp đất nước mình – những cái nôi, những quả bom hẹn giờ cho dịch bệnh bùng phát.
Những khu “chợ ẩm ướt”
Khi dịch Covid-19 bùng phát ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc vào tháng 12 năm ngoái – nó còn chưa có tên chính thức và chỉ được gọi là một “bệnh viêm phổi lạ” – các nhà dịch tễ học đã nhanh chóng thu hẹp được phạm vi để xác định nguồn gốc lây lan của chủng virus.
Kết quả điều tra 41 bệnh nhân đầu tiên ởthành phố Vũ Háncho thấy 27 người trong số họ đã cùng đến một địa điểm trước khi các triệu chứng khởi phát. Đó là một khu chợ bán hải sản tươi sống có tên là Huân Nam.
Chợ hải sản Huân Nam được mô tả là một khu vực cóhơn 1.000 gian hàng. Ngoài hải sản, ở đó còn bán cả gà, sóc, thỏ, các động vật hoang dã và cả động vật giết mổ.
Khi nhìn vào một khu chợ như vậy, các chuyên gia dịch tế sẽ thấy nó như một bể chứa virus khổng lồ, những con virus lây nhiễm trên động vật được gọi làzoonoses. Trong một không gian nhỏ, với mật độ động vật và con người lớn, virus sẽ tìm được đường nhảy sang cơ thể chúng ta, tiến hóa và lây nhiễm.
Lây nhiễm virus lệch loài xảy ra ở tần suất rất rất thấp. Nhưng một khi diễn ra, nó lại châm ngòi cho những thảm họa. Các chuyên gia y tế cho biết quần thể zoonoses ở động vật có thể lên tới 1,67 triệu loài. Hiện chúng ta mới chỉ phân loại được trên dưới 600 loài trong số chúng.
Trong quá khứ, có hơn 75% các bệnh mới nổi trên người đều bắt nguồn từ động vật. Và chỉ ngay thế kỷ trước, ít nhất 10 bệnh truyền nhiễm đã lây nhiễm từ động vật sang người. Hầu hết các đại dịch của thế giới, từ HIV, cúm gia cầm, cúm lợn, cho tới SARS, Ebola và Zika đều nằm trong số đó.
Những khu chợ ở Trung Quốc đã từng là cái nôi cho virus SARS nhảy từ dơi, sang cầy hương rồi sang người vào năm 2002. Nó cũng là địa điểm làm bùng phát dịch cúm gia cầm năm 2013. Và có thể, chợ hản sản Huân Nam cũng là một điểm bùng phát, hoặc chí ít cũng khuyếch tán quy mô của dịch Covid-19.
Mô hình lặp đi lặp lại khiến truyền thông Phương Tây từ lâu đã chú ý đến những khu chợ này. Họ đặt cho chúng một biệt danh chung không mấy trang nhã:”wet market”, có nghĩa là những “khu chợ ẩm ướt”.
Ban đầu, cụm từ này được dùng ở Hong Kong và Singapore để phân biệt các khu chợ bán đồ tươi sống với đồ khô và thực phẩm đóng gói.
Tuy nhiên, sự phổ biến của những khu chợ kỳ lạ và hỗn loạn ở Trung Quốc – nơi bán cả động vật sống lẫn động vật giết mổ, cả động vật chăn nuôi lẫn động vật hoang dã – cuối cùng đã gieo được nỗi ám ảnh vào đôi mắt của những người Tây Phương.
Trong một nền văn hóa chỉ có thịt đông lạnh bày bán ở siêu thị, họ cảm thấy bất ngờ với những gì đang diễn ra ở đây, với những loại thịt tươi sống đang được tiêu thụ. Người dân Trung Quốc thích ăn “thịt ấm”, theo cách gọi của họ, và tốt nhất là thịt động vật được giết mổ ngay tại chỗ.
Khi Jason Beaubien, một phóng viên của trang tin NPR đến thăm Hong Kong, anh đã phần nào hình dung được một khu chợ như Huân Nam nếu nó còn mở cửa. Ở Hong Kong có một khu chợ tên là Tai Po, một phiên bản mô phỏng cho những gì gọi là wet market ở Trung Quốc.
“Mọi thứ ở đây đều ướt sũng”, Beaubien cho biết. Anh thấy những con cá bơi trong bồn nước mở nắp. Chúng mang trong mình cái giá của sự tươi sống, và một khi quẫy đuôi, nước văng khắp sàn nhà lại trở thành một hình thức quảng cáo không thể tuyệt vời hơn cho độ ngon của cá.
Nếu một khách hàng chọn được một con cá ưng ý, chủ sạp hàng sẽ bắt nó ra khỏi bồn nước, đập dập đầu và phi lê nó ngay trên quầy hàng. Mặt của chiếc bàn lúc nào cũng đỏ máu và đôi khi sót lại cả ruột, gan, nội tạng của lũ cá.
Ở một góc khác của sạp hàng hải sản, những con rùa sống và động vật giáp xác đang trèo lên nhau để cố gắng thoát ra khỏi chiếc hộp đựng trong tuyệt vọng. Nước đá tan chảy xuống nền nhà làm tăng thêm sự nhếch nhác vốn có của nó.
“Chợ ở Hồng Kông vậy còn sạch hơn chán rồi đó”, một người phụ nữ tên Wong, chủ của một quầy bán sò nói với Beaubien. “Ở đây không giống như Trung Quốc đại lục”.
Quả thực, các mặt hàng tươi sống trong chợ Tai Po chỉ tập trung vào hải sản, bên cạnh một số loài gia súc và gia cầm được chăn nuôi. Ở Trung Quốc, các khu chợ ẩm ướt có thể bày bán nhiều mặt hàng đa dạng hơn. Họ có động vật hoang dã, những con thú và chim rừng, có rắn hổ mang, tê tê, cầy hương Himalaya và cả chó gấu trúc.
Ở Tai Po, bạn không thể tìm thấy chim rừng. Những con chim duy nhất xuất hiện ở đây là gà. Những quầy bán gà tập trung đằng sau khu vực giết mổ lợn. Phía sau quầy hàng, Beaubien gặp Chan Shu Chung, một người đàn ông đã bán gà ở chợ Tai Po được 10 năm.
Cũng giống như ở quầy cá, Chung cho phép khách hàng của mình chọn một con gà sống trong lồng của ông ấy. Khi khách lựa xong, ông thò tay vào lồng, tóm lấy đôi chân của nó và lôi ngược lên, đặng cho khách nhìn thấy bộ ngực đầy đặn của món vật.
Nếu khách ưng ý và chọn, Chung sẽ đưa cho họ một thẻ nhựa ghi số. Ông lấy một thẻ khác có con số y hệt và buộc vào chân con gà. 15 phút là khoảng thời gian đủ để làm thịt nó. Khách hàng có thể tiếp tục đi chợ, và khi họ đem thẻ nhựa trở lại thì những miếng “thịt ấm” của con gà đã được xếp lại, sẵn sàng gói cho họ mang về.
Không thể bị đóng cửa
Từ khi có ý định chuyển mình thành một cường quốc trên thế giới, Trung Quốc đã luôn phải đối mặt với một thách thức lớn: Làm sao để nuôi sống 1,4 tỷ người dân của mình? Hệ thống nông nghiệp của họ liên tục phải loay hoay khi tìm cách trả lời câu hỏi ấy.
Khoảng giữa thế kỷ 20, những mảnh đất canh tác rộng lớn từng bị tịch thu từ tay địa chủ phong kiến đã được chia nhỏ và phân phát lại cho từng hộ nông dân. Sau đó đến năm 1953, Trung Quốc lại thu hồi tất cả và gom lại thành các hợp tác xã nông nghiệp khổng lồ.
Đến khi mô hình hợp tác xã bộc lộ những khuyết điểm và đi đến thất bại, năm 1978 quyền sử dụng đất một lần nữa được chia nhỏ cho từng người dân. Và từ đó tới nay, hệ thống thực phẩm của Trung Quốc liên tục bị phụ thuộc vào một mạng lưới những hộ canh tác và chăn nuôi nhỏ lẻ.
Mặc dù chính sách đất đai đã tiếp tục được cải cách vào thập niên 1990, cho phép người nông dân Trung Quốc tự thỏa thuận để sáp nhập các mảnh đất lại – dưới hình thức cho thuê hoặc bán quyền sử dụng, nhưng quá trình chuyển đổi từ mô hình sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ sang một ngành nông nghiệp với quy mô lớn như Phương Tây vẫn diễn ra không hề thuận lợi.
“Chính phủ Trung Quốc đã nỗ lực trong suốt một thời gian dài, để thực hiện mục tiêu hiện đại hóa nền nông nghiệp, bao gồm việc thành lập những nông trại quy mô lớn trong những năm gần đây”, Darin Friedrichs, một nhà phân tích thị trường hàng hóa Châu Á tại công ty tài chính INTL FCStone, Thượng Hải cho biết.
Kể từ khi dịch SARS bùng phát ở một khu chợ ẩm ướt ở Quảng Châu vào năm 2002-2003, chính quyền Bắc Kinh đã khuyến khích xây dựng các siêu thị cung ứng thực phẩm nhằm giảm sự phụ thuộc, và đi đến xóa bỏ những khu wet market.
Dịch cúm gia cầm bùng phát vào năm 2013 thậm chí đã từng khiến Trung Quốc hạ quyết tâm đóng cửa hoàn toàn những thị trường nhỏ lẻ mất vệ sinh này. Nhưng bởi thói quen tiêu dùng và nhu cầu của người dân không được giải quyết, chính tại các khu wet market bị đóng cửa này lại hình thành nên những chợ đen bất chấp lệnh cấm.
Những vụ bê bối liên quan đến sữa bột trẻ em chứa melamine, rong biển giả và tôm lừa đảo đã làm suy yếu các nỗ lực hiện đại hóa các thị trường thực phẩm. Người tiêu dùng Trung Quốc cảm thấy niềm tin vào các chuỗi sản xuất thực phẩm hàng loạt bị tổn hại.
Và thế là họ tiếp tục đi đến các khu chợ ẩm ướt mở chui để mua những thực phẩm tươi hơn, rẻ hơn, Si Zhenzhong, một chuyên gia về an ninh và an toàn thực phẩm ở Trung Quốc tại Đại học Waterloo, Ontario, Canada cho biết.
Với nguy cơ mất kiểm soát dịch bệnh còn lớn hơn từ đó, Trung Quốc đã buộc phải mở cửa lại những khu chợ ẩm ướt, và chỉ có thể tăng cường các biện pháp giám sát hoạt động của chúng. Các biện pháp này bao gồm kiểm soát phân động vật, khử trùng chợ thường xuyên và thúc đẩy hoạt động giết mổ hợp vệ sinh.
Người tiêu dùng cũng được tuyên truyền và giáo dục về những nguyên tắc an toàn khi đi vào các khu chợ ẩm ướt. Việc kiểm soát dịch bệnh để phát hiện các ổ dịch mới phát sinh từ chợ cũng được thắt chặt.
Xem thêm: Chi Tiết Máy Là Gì Và Những Vấn Đề Về Thiết Kế Chi Tiết Máy, Chi Tiết Máy Là Gì
Nhưng các biện pháp này vẫn khiến số lượng chợ ẩm ướt gia tăng. Wet market tiếp tục xâm chiếm, không chỉ vùng nông thôn mà vào cả các thành phố và siêu đô thị ở Trung Quốc.
Quá trình hiện đại hóa và tăng quy mô sản xuất nông nghiệp diễn ra chậm chạp tiếp tục cho phép nhiều hộ nông dân cá thể tồn tại.
Và đối với những mặt hàng của mình, họ chỉ có thể tìm thấy cơ hội tại các khu chợ ẩm ướt. Các chuỗi siêu thị hoặc cửa hàng tạp hóa lớn đơn giản là nơi mà hàng hóa của họ gần như không thể thâm nhập.
Giải pháp nào cho hiện tại và tương lai?
Chỉ một ngày sau khi công bố dịch, chính quyền thành phố Vũ Hán đã đóng cửa chợ hải sản Huân Nam và tiến hành phun khử nhiễm toàn bộ khu vực. Tuy nhiên, các khu chợ ẩm ướt khác trên khắp đất nước vẫn tiếp tục hoạt động.
Tại chợ Tai Po, người chủ sạp bán gà tên Chung nói rằng ông không sợ virus corona mới. Trong khi cả Hong Kong phát sốt trong cơn khát khẩu trang, ông Chung không đeo bất kỳ một thứ đồ bảo hộ gì trên mặt, ngay cả một chiếc khẩu trang vải.
Ông nói rằng mình đã tiêm phòng cúm hàng năm, và tin rằng những mũi tiêm đã giúp ông miễn dịch được với cả virus SARS. Tất nhiên, bằng chứng khoa học cho điều đó không tồn tại.
Quá khứ đã chứng minh một thực tế rằng, đóng cửa tất cả các khu chợ ẩm ướt ở Trung Quốc là một điều bất khả thi. Các khu wet market đang đóng góp từ 30-59% tổng nguồn cung thực phẩm trên khắp Trung Quốc.
Đó cũng là kế sinh nhai của hàng chục triệu tiểu thương và người lao động. Các nỗ lực đóng cửa chợ ẩm ướt ở Trung Quốc trước đây, sau dịch SARS năm 2003 và cúm gia cầm năm 2013, đã đều dẫn đến cùng một hậu quả.
Nó khiến giá cả gia tăng, tạo điều kiện cho các chợ đen hình thành. Và hoạt động buôn bán không kiểm soát thậm chí còn tạo điều kiện tốt hơn cho các dịch bệnh bùng phát.
*Người dân nên thực hiện các nếp sống mới nào trong dịch Covid-19, mời tham khảotại đây.
Christos Lynteris, một nhà nhân chủng học tại Đại học St Andrew cho biết, thay vì đóng cửa hoàn toàn các khu wet market, Trung Quốc có thể siết chặt hơn hoạt động buôn bán một mặt hàng đặc biệt trong đó để có được hiệu quả: đó là động vật hoang dã.
Đợt bùng phát virus corora mới được cho là xuất phát từ loài dơi. Nhưng những con dơi sống trong những hang động ở miền núi khó có thể bay tới một khu chợ giữa trung tâm thành phố để lây nhiễm virus cho con người. Nó cần có một loài trung gian mang mầm bệnh, những con vật vô tình ăn phải phân hoặc nước bọt của dơi và rồi trở thành thức ăn của con người.
Trong quá khứ, cầy hương từng là động vật trung gian lây truyền SARS. Và bây giờ, mối nghi ngờ trong dịch Covid-19 bị đẩy sang những con tê tê.
Tê tê là một loài thú có vảy và mõm dài để ăn kiến. Chúng thường sống ở Châu Á và Châu Phi. Ở Trung Quốc, thịt tê tê cực kỳ được ưa chuộng. Nó là một dược liệu được sử dụng trong đông y. Những bà mẹ cho con bú thường ăn tê tê vì nghĩ rằng nó cho dòng sữa tốt. Những người lớn tuổi hoặc mắc bệnh nan y cũng cho rằng tê tê rất bổ cho mình.
Tê tê thường được bày bán công khai ở các khu chợ ẩm ướt ở Trung Quốc, bất chấp một thực tế rằng nó có mặt trong các loài bị cấm buôn bán, theo Công ước CITES về thương mại động vật hoang dã toàn cầu.
Ước tính cho thấy từ năm 2000 đến năm 2013, có hơn 1 triệu con tê tê đã được bán trên thị trường bất hợp pháp. Thống kê của Wildlife Justice Commission, một tổ chức phi chính phủ, cho thấy từ năm 2016 đến năm 2019, chỉ riêng Trung Quốc đã thu giữ được khoảng 206 tấn vảy tê tê trong 52 cuộc bắt giữ hành vi buôn bán loài vật này.
Để giải quyết vấn đề, ngày 22/1, chính phủ Trung Quốc đã ra lệnh cấm buôn bán động vật hoang dã áp dụng trên toàn quốc. Động thái được cho là hết sức mạnh mẽ để ngăn chặn không chỉ dịch bệnh hiện tại, mà còn cả các dịch bệnh trong tương lai.
Điều đó đồng nghĩa với việc đàn áp một thị trường có thể có quy mô lên tới hàng chục tỷ USD. Trung Quốc cũng là quốc gia tiêu thụ động vật hoang dã nhiều nhất trên thế giới. Một cuộc khảo sát năm 2014 tại năm thành phố của Trung Quốc cho thấy 83% số người được hỏi ở Quảng Châu đã ăn động vật hoang dã ít nhất một lần trong năm.
Trong khi đó, y học cổ truyền Trung Quốc, một ngành công nghiệp sức khỏe có giá trị tới 60 tỷ USD cũng dựa một phần trên các nguyên liệu đến từ động vật hoang dã. Chẳng hạn như trong năm 2016, các công ty dược phẩm Trung Quốc đã phải xin cấp phép sử dụng tới 73.000 con tê tê để làm nguyên liệu thuốc.
W. Ian Lipkin là một vị giáo sư dịch tễ tại Đại học Columbia, Mỹ. Ông được mệnh danh là “thợ săn virus” khi đã luôn có mặt tại hiện trường để nghiên cứu các diễn biến của những dịch bệnh trên thế giới.
Năm 2003, Lipkin đã tới Trung Quốc giữa đại dịch SARS để điều tra nguồn gốc của nó. Và năm nay, ông vừa có một chuyến đi kéo dài 1 tuần tới Quảng Châu, tỉnh chịu ảnh hưởng thứ hai trong dịch Covid-19, chỉ sau Hồ Bắc.
“Tôi đã nói với bất kỳ ai tôi từng gặp ở Trung Quốc: “Nhìn xem, các ngài, tôi đã nói với các ngài điều này từ năm 2003, 2004 và 2005, năm nào tôi cũng nói đi nói lại. Chúng ta không thể để những thị trường động vật hoang dã như thế tồn tại”, Lipkin nói trongmột cuộc phỏng vấnqua điện thoại khi đang phải cách ly 14 ngày vì trở về Mỹ từ vùng dịch.
Nhưng giải quyết vấn đề buôn bán động vật hoang dã phải được thực hiện từ gốc rễ. Trên thực tế, phần lớn các động vật hoang dã được bán ra ở các khu chợ ẩm ướt Trung Quốc không thực sự sống ngoài hoang dã, mà chúng được nuôi nhốt và nhân giống.
Khi Trung Quốc thực hiện hiện đại hóa chuỗi chăn nuôi của mình, họ đã áp dụng nó với các loài gia súc gia cầm chính như gà, lợn và bò đầu tiên. Điều này đẩy những người nông dân chăn nuôi cá thể vào thế không thể cạnh tranh được.
Và trong khi loay hoay tìm một hướng đi mới, họ đã thấy các loài động vật hoang dã như một mặt hàng tốt hơn. Một mặt, nó sẽ né được vết bánh xe của những người khổng lồ. Mặt khác, động vật hoang dã có giá cao hơn, được coi là một kế thoát nghèo tốt hơn ở các vùng nông thôn Trung Quốc như Quý Châu và Quảng Tây.
Tin tốt là các biện pháp giáo dục cộng đồng đang cho thấy hiệu quả tích cực. Khảo sát năm 2014 cho thấy 52,7% người dân ở Trung Quốc được hỏi nghĩ rằng họ không nên tiêu thụ động vật hoang dã. Con số đã gia tăng từ 42,7% vào năm 2004.
Trong một cuộc họp vào ngày 3/2, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã chỉ đạo tăng cường việc giám sát thị trường, kiên quyết cấm và đàn áp mạnh mẽ việc buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp.
Đầu tuần này, Quốc hội Trung Quốc cũng vừa cập nhật các luật và quy định bảo vệ động vật hoang dã theo hướng này. Theo đó, cơ quan lập pháp tối cao đã ban hành lệnh cấm hoàn toàn đối với hành động buôn bán và tiêu thụ mặt hàng này.
Theo tờ Nhân dân Nhật Báo, các quy định áp dụng cho cả động vật hoang dã sống trong tự nhiên từng được pháp luật bảo vệ từ trước đó, và bây giờ mở rộng sang cả động vật hoang dã được nuôi nhốt.
Điều đó có nghĩa là quy mô thị trường bị ảnh hưởng còn lớn hơn nữa.Theo một báo cáo do chính phủ Trung Quốc công bố năm 2017, ngành công nghiệp thương mại và tiêu thụ động vật hoang dã của Trung Quốc được định giá 520 tỷ nhân dân tệ (tương đương 74 tỷ USD) và sử dụng hơn 14 triệu người lao động.
Hơn một nửa trong số đó – khoảng 7,6 triệu người – làm việc trong ngành lông thú và da, trị giá khoảng 390 tỷ Nhân dân tệ. Khoảng 6,2 triệu người làm việc trong các trang trại chăn nuôi hoặc chế biến động vật làm thực phẩm.
Theo các chuyên gia nhận định, chính sách mới sẽ gây ra một số thiệt hại kinh tế cho một bộ phận không nhỏ người dân và doanh nghiệp Trung Quốc. Vì vậy, chính quyền nước này nên có các biện pháp hỗ trợ họ, chẳng hạn như giúp người nông dân chuyển đổi mô hình sản xuất hoặc cung cấp các gói hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp bị ảnh hưởng.
Khoảng 10 năm về trước, Trung Quốc đã ngăn chặn rất thành công nạn giết mổ cá mập để lấy vây (làm súp), nhờ vào một chiến dịch cộng đồng có sự tham gia của những người nổi tiếng.
Điều đó cho thấy rằng việc tuyên truyền và nâng cao nhận thức của công chúng sẽ tiếp tục góp vai trò quan trọng vào việc kìm chế nạn buôn bán động vật hoang dã, và giảm thiểu rủi ro dịch bệnh. Phương pháp này có thể được mở rộng ra cho cả thói quen tiêu dùng trong các khu chợ ẩm ướt.
Về lâu về dài, mô hình hoạt động của các wet market vẫn nên bị xóa sổ. Trung Quốc nên đẩy mạnh hoạt động giáo dục công chúng về những rủi ro sức khỏe liên quan đến những khu chợ này. Khi một thế hệ khách hàng trẻ ở đây lớn lên, xu hướng khi đó chắc chắn sẽ thay đổi.
Cuối cùng, các biện pháp kể trên không thể giảm nguy cơ dịch bệnh trong một sớm một chiều và tháo ngay được ngòi nổ của những quả bom wet market. Nhưng theo thời gian, nó sẽ giúp cho cuộc sống của người dân Trung Quốc, và cả các quốc gia khác trên thế giới trở nên an toàn hơn, hạn chế nguy cơ bệnh dịch được nuôi nấng, bùng phát hoặc khuyếch đại bên trong những khu chợ ẩm ướt này.