NGÔN NGỮ HỌCVĂN HÓAVĂN SỬ ĐỊAVĂN HỌCSỬ HỌCHành trình Lịch sửĐông Dương Thuộc địaĐỊA LÝ HỌCBÚT CHIẾNBút chiến Ngôn ngữBút chiến Hán NômBút chiến Giáo dụcBút chiến Văn họcBút chiến Lịch sửBÚT KÝTÂM LINHVIỆT NAM TƯƠNG LAI HỌCNHÂN VẬT LỊCH SỬHOT NEWS
TRIỀU NGUYÊN(Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam)
TÓM TẮT
Vè được nhiều người thừa nhận là một thể loại thuộc văn học dân gian Việt Nam, được đưa vào giảng dạy trong các bậc học của hệ thống giáo dục, nhưng việc nghiên cứu, tìm hiểu về nó lại khá hiếm hoi. Bài viết này trình bày kết cấu của vè qua hai bình diện: Kết cấu theo lối tổ chức nội dung sự việc, gồm ba phần (phần mở đầu, phần miêu tả, kể lại câu chuyện, và phần kết thúc); và Kết cấu theo tính cách nhân vật, chia con người trong một tác phẩm làm hai tuyến. Đồng thời, bài viết cũng so sánh giữa kết cấu của vè với kết cấu của một số thể loại thuộc nhóm trần thuật của văn học dân gian khác (như truyện thơ, truyện trạng, truyện ngụ ngôn…). Trong điều kiện các nghiên cứu về vè hạn chế như hiện nay, vấn đề mà bài viết đặt ra sẽ ít nhiều có ích và là gợi ý quan trọng trong việc tìm hiểu về thể loại này.
Đang xem: Kết cấu của thể loại vè là gì, nghĩa của từ vè trong tiếng việt
Từ khóa: Kết cấu; Thể loại; Văn học dân gian; Vè.
ABSTRACT
“Vè” is widely acknowledged as a genre of Vietnamese folklore, introduced in many levels of the education system, but it is quite rare to research and learn about it. This paper presents the structure of “Vè” in two dimensions: The structure dependent on plot, consisting of three parts (introduction, description – i.e., telling the story, and ending); and The structure dependent on the characters’ personalities, dividing the people in a folktale into two types. At the same time, the author of this paper also compares the structure of “Vè” to that of some other types of narrative folklore (such as poetry, “Trạng” stories, fables, etc.). Today, there is limited research about “Vè”, so the problem that this paper addresses will be quite useful, and it is important to learn more about this genre.
Keywords: Folk literature; Genre; Structure; “Vè”.
xx x
1. Đặt vấn đề
Hiếm có một tài liệu nghiên cứu trong quá khứ bàn về kết cấu của thể loại vè. Bài viết này dựa vào một số thuật ngữ/ khái niệm chung của vấn đề ở vài cuốn từ điển và thực tiễn tìm hiểu về thể loại đặt ra để đề xuất các nội dung liên quan. Dưới đây, là số trích dẫn cần thiết.
Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. <…> Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Bố cục là một phương diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm: Tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; Nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện… sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chính thể nghệ thuật. <…> Kết cấu bộc bộ nhận thức, tài năng và phong cách của nhà văn (Lê, Trần, & Nguyễn, 2007, tr. 131).
Vè là một thể loại tự sự bằng văn vần của văn học dân gian, dạng “khẩu báo” (báo miệng), kể về các hiện tượng tự nhiên, về con người, và về xã hội, các đối tượng này đều “có vấn đề”, khiến những người ở địa bàn liên quan muốn biết, và muốn thể hiện sự quan tâm của họ; Vè có phong cách tường minh và cụ thể1. Theo Hoàng (1994, tr. 75-76, 469) thì bố cục là “tổ chức, sắp xếp các phần để tạo thành một tác phẩm hoàn chỉnh”, và kết cấu là “sự phân chia và bố trí các phần, các chương mục theo một hệ thống nhất định để thể hiện nội dung của tác phẩm”, thì đây là hai khái niệm/ thuật ngữ gần nghĩa. Từ điển văn học (1983, tr. 83) đã nêu rõ điều ấy: “Ở những tác phẩm khuôn khổ nhỏ, bố cục có thể trùng với kết cấu”2. Theo đó, tìm hiểu kết cấu của vè, sẽ giúp việc nắm bắt ở mặt cơ bản của hình thức nghệ thuật, một yếu tố quan trọng nhằm có được sự nhìn nhận thấu suốt về thể loại này.
2. Giải quyết vấn đề
Phần lớn các bài vè có kết cấu ba phần: Phần mở đầu (tức đặt vấn đề); Phần miêu tả, kể lại sự việc được nêu; và Phần kết thúc, khép nó lại (nếu ở nhiều thể loại khác, hai phần mở đầu và kết thúc thường không mấy quan trọng, nên ít được quan tâm, thì ở thể loại vè lại khác, đây là hai bộ phận cần được chú ý). Đồng thời, thể loại vè có kết cấu phân tuyến nhân vật, dù sự phân tuyến ấy không rõ ràng, cũng rất cần được nắm bắt. Cuối cùng, là việc so sánh hai kết cấu cơ bản của vè (chia ba phần và phân tuyến nhân vật), với các kiểu kết cấu của một số thể loại văn học dân gian khác. Đó là ba lĩnh vực trọng tâm của việc giải quyết vấn đề mà bài viết đặt ra
2.1. Kết cấu theo lối tổ chức nội dung sự việc gồm ba phần
2.1.1. Phần mở đầu và phần kết thúc của vè
Phần mở đầu bài vè, thường từ hai đến ba/bốn dòng thơ, nhằm giới thiệu vấn đề ở mức khái quát. Phần này chứa hai nội dung cơ bản, đó là thể loại và đề tài, thường lấy làm nhan đề của tác phẩm vè đặt ra. Phần mở đầu này rất đặc biệt, trừ số vè là đồng dao (như “Vè con cá”, “Vè các rau”, “Vè chim chóc”,…), có thể xem chúng đã biểu trưng cho thể loại vè. Bởi qua chúng, mà nhận biết văn bản đang đặt ra là vè (thay vì ca dao, truyện thơ,…) của văn học dân gian, không phải thơ của văn học viết, và văn bản vè ấy nói về điều gì.
Dưới đây là một số (sáu thí dụ đầu gồm hai dòng, hai thí dụ sau gồm bốn dòng, thí dụ tiếp theo có nhiều dòng thuộc phần mở đầu của văn bản vè):
(1) Vè vẻ vè ve/ Nghe vè giữ trâu (“Vè giữ trâu”);
(2) Nghe vẻ nghe ve/ Nghe vè gái hư (“Vè gái hư”);
(3) Ai ơi lẳng lặng mà nghe/ Tôi kể chuyện vè xin gạo vừa qua (“Vè xin gạo”);
(4) Ve vẻ vè ve/ Bắt vè hương kiểm3 (“Vè hương kiểm”);
Bốn thí dụ trên cho thấy: i) Về thể loại: Vè (qua “Vè vẻ vè ve”, “Nghe vẻ nghe ve”, “
Dưới đây, việc thể loại không được bài vè nhắc đến, nhưng đề tài và chủ đề thì vẫn được nêu và chúng cũng được dùng để đặt nhan đề như các trường hợp trước, trong phạm vi hai dòng đầu:
(5) Bom lia cầu Cấm sập rồi/ Bây giờ ông Nhật vào mời đi phu (“Đi phu cầu Cấm”);
(6) Hoàng triều Tự Đức lên ngôi/ Ngai vàng Thiệu Trị, nối đời quân vương (“Vè Tự Đức lên ngôi”);
Trong phạm vi bốn dòng mở đầu, không ghi thể loại, nhưng vẫn có nêu đề tài và chủ đề, và dùng chúng để đặt nhan đề (tuy không cụ thể, rõ ràng như đã đề cập); Chẳng hạn:
(7) Năm nay Ất Hợi/ Tình tội đủ điều/ Tại nạn nhà nghèo/ Trời xui đất khiến (“Vè kể khổ”);
(8) Ngồi buồn kể chuyện cổ kim/ Giữa năm Bính Thìn, đốt pháo trung thiên; Năm trước vỡ đê Bồng Điền/ Năm sau Hà Lão, vỡ liền hai đê! (“Vè vỡ đê Bồng Điền và đê Hà Lão”);
“Tình tội đủ điều” kết hợp với “Tại nạn nhà nghèo” tạo nên cái khổ, đó là đề tài của “Vè kể khổ”. Cặp lục bát 3-4 của bốn dòng đầu bài “Vè vỡ đê Bồng Điền và đê Hà Lão”, nói lên đề tài, đồng thời, là nhan đề của bài ấy. Cũng có một số trường hợp, phải nghe/đọc gần hết phần đầu mới nắm được đề tài, chẳng hạn:
(9) Chiếng làng thượng hạ/ Nín lặng mà nghe/ Con bò, con me/ Bình yên thường lệ/ Mỗi năm một lễ/ Kính tế sự thần/ Đúng vào mùa xuân/ Thượng tuần tam nguyệt/ <…>/ Để mà cúng giỗ/ Ông thần Mục Đồng… (“Cúng ông Mục Đồng” – “me”: bò con)4;
Bài vè sưu tầm được ở Quỳnh Tụ (Quỳnh Xuân), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Do Thần Nông được hình tượng hoá dạng đứa trẻ dắt trâu ăn cỏ, nên cũng gọi là Thần Mục Đồng (“mục đồng”: Trẻ chăn trâu, bò). Nói cúng Thần Nông thì không ai ngạc nhiên, nhưng bảo “Cúng ông Mục Đồng”, thì nhiều người lấy làm lạ và tìm cách nghe/đọc. Đây là lí do sử dụng nhan đề này. Khổ trước (bốn dòng đầu) “rao” sự việc (“chiếng”: Cũng nói chiềng, phổ thông là “trình”), mà chưa biết thông báo về việc gì. Khổ tiếp theo cũng chỉ cho biết thời gian của việc tế thần (vào đầu tháng ba âm lịch), không rõ tế ai. Đến hai dòng đầu của khổ thứ sáu bài vè (tức dòng 21, 22), mới nói hẳn ra đối tượng của việc cúng tế, là ông thần Mục Đồng (hai tài liệu Ninh (2000) và Ninh (2011) thường chia khổ các bài vè, mỗi khổ gồm bốn (có khi năm hoặc ba) dòng thơ – riêng bài đang bàn, gồm 11 khổ, mỗi khổ 4 dòng).
Phần kết thúc là kết luận của bài vè. Đó là ý muốn, ước vọng, và tình cảm của văn bản vè (hay người đặt, người sáng tạo vè), là hệ quả của sự việc, biến cố đã đề cập. Như bốn bài “Sai anh trẩy Trấn Hưng”, “Phong cảnh làng Hương Nha”, “Phong cảnh Phú Cường”, và “Bài ca đình làng Tứ Mỹ”, trong mục “vè” từ Dương (2012, tr. 60-72). Bài đầu, có câu cuối “Anh không có vợ đã có em đây”; Bài thứ hai có cặp dòng kết thúc “Chắc có nhẽ chị Hằng hữu ý/ Cảnh Hương Nha tiếng để mai sau”; Bài thứ ba, có cặp lục bát kết thúc “Hỏi ai là khách má hồng/ Ngắm xem có bận tấm lòng cố hương”; Bài cuối, có cặp lục bát kết thúc “Quan san muôn dặm nức lòng/ Xe xe ngựa ngựa ung dung về làng”. Có thể thấy, ở phần kết thúc của bài đầu: “Anh không cần cưới vợ đâu, đã có em đây lo liệu mọi bề!” Chủ thể của bài vè là một cô gái. Với ba bài sau, nói về phong cảnh quê hương, nhằm nhắn nhủ mọi người (nhất là dân làng), dù đi đâu hay ở đâu cũng nên tìm về nguồn cội.
Hoặc như năm bài đầu của phần IV, “Những bài vè nói về đi phu đào sông…” từ Ninh (2000, tr. 369-390): (1) “Đen đầu thì phải việc quan”; (2) “Bắt dân xứ Nghệ ra đào khe Son”; (3) “Nỗi khổ đào sông”; (4) “Thậm tình cơ khổ là cái nạn đào sông”; (5) “Đi phu đào kênh nhà Lê (I)”. Các phần cuối (theo thứ tự): “Giừ dân đang cơ cực/ Vừa thuế vừa phu/ Đói tóp lỗ khu/ Lấy chi mà gánh vác” (Ninh, 2000, tr. 371); “Khi nào vét được cho xong/ Trở về khốn cùng, chẳng có chi ăn/ Kẻ thời bán áo, bán khăn/ Người thời chịu đựng, khổ thân thay là/ Mẹ con bay hãy ở nhà/ Bữa ăn bữa nhịn cho qua lúc này/ Còn năm ba bát gạo đây/ Cất đi cho ỉm để rày trẩy phu/…” (Ninh, 2000, tr. 374); “Giừ thương thay một nỗi/ Vợ con bỏ đêm ngày/ Giừ các quan đã đòi/ Dân đang còn đói rách/ Bỏ cửa nhà đi sạch/ Nghĩ đã khổ cái thân/ Bao nhiêu gái chưa chồng/ Không nhông nhang chi nữa/ Không chồng chàng chi nữa!”5 (Ninh, 2000, tr. 383); “Nơi không đủ thước/ Roi vọt quất vào lưng/ Nghĩ cái phận dân cùng/ Thậm tình cơ khổ, là cái nạn đào sông!” (Ninh, 2000, tr. 386-387); “Vì ba thằng nghịch nước/ Bắt phải đi phu đào sông/ Đào mãi không xong/ Bao người bỏ tiền mua, hào lí ăn cả” (Ninh, 2000, tr. 390). Chúng cũng cho thấy cái cơ cực của việc đào sông, qua các bài vè: Chịu đói khổ, bị đánh đập, phải tan cửa nát nhà, cảnh chức sắc, quan lại thừa cơ nhũng lạm,…
Cũng có một số trường hợp đặc biệt, người đặt kết thúc bài vè theo ý riêng như: “Nay ta nổi hứng/ Thái Bạch giáng trần/ Giáng bút đôi vần/ Cho mọi người đọc” (“Vè ở khám” (Lê, 1986, tr. 184)); hoặc: “Phải chi diệu vợi nơi đâu/ Đã toan lập lượng chước màu tâu vô/ Chẳng qua sự đã sờ sờ/ Ai ai cũng lặng như tờ kín hơi/ Nghĩ đời mà ngán cho đời/ Làm tôi ăn uổng lộc trời lắm ru/ Nghênh ngang võng võng, dù dù/ Bài vàng mũ trụ, xuân thu đáo đầu/ Cũng không tài cán chi đâu/ Rồi ra múa mỏ, vảnh râu chõm choè/Phen này mắt thấy tai nghe/ Tham sinh uý tử một bè như nhau/ Ăn thì nhằm trước nhằm sau/ Đến khi có giặc rụt đầu rụt đuôi/ Cũng xưng rằng đấng làm tôi/ Cớ sao chẳng biết hổ ngươi trong mình?” (“Vè tàu ô cướp thuyền ở cửa Thuận” (Tôn, 2001, tr. 146- 150))6;…
Người đặt hai bài vè vừa nêu hoặc có thái độ ngang tàng, hoặc người cầm cân nảy mực trong thiên hạ. Quả vậy, đó là anh ở tù (“khám”: Nơi giam giữ phạm nhân), là nhà vua (vua Tự Đức). Theo đó, trừ một số trường hợp đặc biệt, việc kết thúc phụ thuộc vào vấn đề mà bài vè đặt ra. Thường gặp, nếu nói về phong cảnh làng quê, thì kêu gọi mọi người đừng quên nguồn cội, nói về việc phu phen bắt buộc thì lên án công việc nặng nề, cực nhọc, chuyện quan không hiểu lòng dân,…
Qua phần kết thúc, ở một số trường hợp, có thể nhận ra người đặt, chủ thể tự sự, hay nhân vật của bài vè. Chẳng hạn, bên cạnh người sáng tạo của bài “Sai anh trẩy Trấn Hưng”, là một cô gái đã nêu, có thể tìm thấy: i) Bài “Bắt dân xứ Nghệ ra đào khe Son”, chủ thể tự sự là một nông dân đã có vợ con; và ii) Bài “Vè ở khám”, người đặt vè là một ông ngang tàng, lớn lối (tự cho mình là “Thái Bạch giáng trần” , và bài vè làm ra theo kiểu “giáng bút”7);…
2.1.2. Phần miêu tả và kể lại sự việc của vè
Phần lớn các bài vè có kết cấu ba phần: Phần mở đầu (tức đặt vấn đề); Phần miêu tả, kể lại sự việc được nêu; và Phần kết thúc, khép nó lại. Phần mở đầu và phần kết thúc thì như đã phân tích và giãi bày, riêng phần miêu tả, kể lại sự việc, cũng cần được biểu thị. Để tiện theo dõi và nắm bắt, có thể trở lại với các trích dẫn tương ứng.
Như bài “Vè giữ trâu”, kể việc vất vả khi phải chăn trâu, vác cày bừa đi làm đồng, còn ở nhà, phải xay lúa và ăn đói mặc rét; “Vè xin gạo” kể việc vì nước mặn gây hại mùa màng, khiến dân đói phải đi xin gạo, bị quan quân đánh đập tàn nhẫn mà chẳng cho hạt nào; “Vè hương kiểm” kể việc dân đang yên lành, thì hương kiểm mới lên cậy thân thế làm điều nhũng lạm, vơ vét, lại mắc các tật xấu là cờ bạc, rượu chè, chẳng đoái hoài đến việc canh phòng, khiến nạn trộm cắp liên miên, dân tình xơ xác; “Vè gái hư” kể việc cô gái (các cô cùng loại thì đúng hơn, bởi nếu chỉ một cô hư đốn mà lắm chuyện như thế thì ghê quá!) dơ bẩn, “áo quần sặc mùi giẻ lau”, đã hèn kém, đểnh đoảng, lại tham ăn, mê ngủ và hỗn hào. Do phần này cũng cho thấy việc phân tuyến của các nhân vật liên quan (là chính diện hay phản diện), nên có thể kết hợp với phần tiếp theo.
2.2. Kết cấu theo tính cách nhân vật, chia con người trong một tác phẩm làm hai tuyến
Có thể theo lối chia vè làm hai tiểu thể loại (gọi tắt là tiểu loại) – vè về sự vật và hiện tượng tự nhiên và vè về con người và xã hội con người. Mỗi tiểu loại gồm hai nhóm: i) Tiểu loại đầu: Vè về thời tiết bất thường và về sự gây hại của tự nhiên; ii) Tiểu loại sau: Vè về sinh hoạt, về lịch sử – để dựa vào sự phân loại ấy mà xem xét việc phân tuyến nhân vật của vè.
2.2.1. Sự phân tuyến nhân vật ở tiểu loại vè về thời tiết bất thường và sự gây hại của tự nhiên
Trên đại thể, tiểu loại này chia nhân vật làm hai tuyến: Con người và tự nhiên. Tự nhiên có thể thuộc siêu nhiên hay những thực thể nằm ngoài sự điều khiển của con người, chúng là những đối tượng gây hại (chứ không phải là cảnh vật để con người thưởng lãm), như lụt bão, hạn hán, chuyện hổ báo vồ người, nạn cào cào phá hoại ruộng lúa,… Bấy giờ, sự vật và hiện tượng tự nhiên trở thành những thế lực đối kháng, thuộc loại tiêu cực, chống lại con người.
Bài “Vè nạn lụt” trong Phạm (1981, tr. 339-341) có cảnh: “Trông ra thấy sóng bạc đầu/ Bè tây như sú, khác đâu bể già!”. Vị trí đứng “trông ra” là nhà hay khu làng mạc (thường gọi đất thổ cư, với đặc điểm chủ yếu là cao ráo). “Sú”: Loài cây ở vùng bùn lầy ven biển, hạt mọc rễ khi quả còn trên cây (thường mọc thành bãi dày và rộng). Chẳng những nước mênh mông, biến đất liền thành biển cả, ngay nơi người dân làm nhà ở cũng không chừa: “Thổ cao coi cũng như đồng/ Trên đường thuyền chở dưới sông khác gì?”. Bài “Trời ơi, nắng mãi không mưa” (Ninh, 2011, tr. 602), ghi nhận việc đi “chắt nước” ở các giếng làng ngày trước: “Ngồi trưa ngày tối buổi/ Được hai ấm nước bùn!”. Có nhiều bài về lụt bão, hạn hán, và côn trùng gây hại, tuy không thán oán tự nhiên, nhưng cũng cho thấy sự oằn lưng để chống đỡ của con người. Điều này nói lên: Dù không phản kháng rõ ràng, tự nhiên đã biến thành một thế lực tiêu cực, phản diện, chống lại cuộc sống an lành của con người (ở bình diện con người mà xét, sự sinh sôi, phát triển của cuộc sống là tích cực, hợp lẽ, tức chính diện).
Bên cạnh sự vật và hiện tượng tự nhiên, có thể có sự tiếp tay của con người. Bấy giờ, những đối tượng hư hỏng này bị xếp vào hàng phản diện, như bài vè “Vỡ đê Hưng Nhân” (Phạm, 1981, tr. 345) khiến “Hương thôn một phút tan tành/ Cửa nhà chìm nổi, dân tình thảm thương!”, do đám chức dịch của làng “Chẳng chăm đê bối, chỉ mê bạc bài” mà ra. Họ bị bài vè nhiếc mắng là “phường ăn hại”, đã “Để dân phu trễ nãi không coi”, khiến xảy ra nông nỗi!
2.2.2. Sự phân tuyến nhân vật ở tiểu loại vè về sinh hoạt và về lịch sử
Ở lĩnh vực kết cấu của tiểu loại vè này, tạm chia làm hai: Sự phân tuyến có tính chất đậm nét và sự phân tuyến có phần nhạt nét hơn. Việc phân tuyến có tính chất đậm nét, có thể bắt gặp ở nhiều tác phẩm. Như bài “Vè giữ trâu”, nếu nhân vật cậu bé thuộc chính diện, thì nhân vật mà cậu gọi bằng chú là một kẻ ác độc (“Ăn xong, chú thím đắp chăn lại nằm/ Bắt tôi xay lúa tối tăm mịt mù”) và keo kiệt (“Niêu chú bằng cái trứng gà/ Chưa ăn đã hết, chưa và đã trôi”, và “Lúa chú đầy lẫm đầy kho/ Chú cho ăn ít chẳng cho ăn nhiều”), thuộc loại phản diện. Bài “Vè xin gạo”, những người dân đi xin vì thiếu đói, nhưng lại bị quan chức, lính tráng bắt bớ và đánh đập thẳng tay. Vậy những người đi xin gạo thuộc lương dân, chính diện còn mấy kẻ đánh người là loại gian ác, phản diện.
Số “Những bài vè nói về đi phu đào sông…” (Ninh, 2000, tr. 369-390), đã dẫn khi bàn về phần kết thúc, chuyện miêu tả, kể sự việc nhằm triển khai ý nghĩa của vấn đề đã nêu (mỗi bài một ý được lược ghi), như sau: i) Sưu thuế và phu phen cùng diễn ra một lần với cảnh hạn hán, nạn châu chấu, cào cào hại lúa, trâu bò bị mắc dịch,… nhân dân đang chịu cảnh mất mùa đói kém và càng thêm vất vả (lẽ ra, ai giàu có thì phải nộp sưu thuế cao hơn để bù cho người nghèo khổ, nhưng hào lí lại không tính như vậy, khiến dân đen đã khổ lại càng cơ cực); ii) Trước năm 1858 có việc đào kênh Thanh Hoá – Nghệ An, công việc kéo dài đến năm 1866, đến 1869 lại tiếp tục đào (đây là công việc vất vả, trong bối cảnh mất mùa thiếu đói, nên khốn đốn hơn – riêng khu vực được giao của huyện Quỳnh Lưu (tỉnh Nghệ An), gặp phải vùng đất cát và dòng nước ngầm phun ra, khiến sự việc vô cùng khó khăn, phức tạp); iii) Trong cảnh mùa màng thất bát, người dân chạy ăn từng bữa, lại phải đi phu đào sông, bị cai, đội đánh đập, khảo tra (trong lúc, nhờ đi phu, họ tận mắt chứng kiến cảnh các quan to nhỏ dập dìu xe cộ, lính tráng hầu hạ, ăn chơi, phè phỡn; Bài vè lập luận: “Kẻ giàu có của/ Thì lấy của che thân/ Ta đói khó cùng bần/ Phải lấy thân che của” – lấy ý từ câu tục ngữ: “Có của lấy của che thân, không có của lấy thân che của”); iv) Cả “tráng” (hiểu như lứa thanh niên) và “ngoại tráng” (tuổi trung niên) đều phải đi phu, đào kênh Sắt (kênh này đi qua vùng mỏ sắt – núi Cấm ở Nghi Lộc – nên gọi là kênh Sắt) – trông “tráng” như “thằng giận vợ”, tức nhem nhuốc, tiều tuỵ; Bắt những người trai tráng đi đào kênh, bỏ lại ruộng đồng không ai cày cấy, thì mai kia lấy gì để sống (?); v) Năm 1871 lại có lệnh đào kênh (đoạn từ kênh Sắt ra Hoàng Mai), mang theo đòn trành với chạc (dây bền như sợi mây, thừng bện) – lệnh nói rõ “Lí trưởng bắt phu dần/ Lớp này thay lớp khác”, tức phu đào kênh phải thay đổi liên tục; Việc “bắt phu” khiến “Xóm làng xao xác” (“xao xác”: Nhốn nháo, có phần hoảng loạn). Theo đó, khi phân tuyến nhân vật, thì những người đi phu đào sông, là lương dân, thuộc chính diện, số hương lí, quan chức lớn nhỏ ít nhiều hưởng thụ trên mồ hôi, nước mắt của đám người hiền lương này, thuộc loại phản diện.
Một số bài vè có sự phân tuyến rõ ràng khác, đó là các bài vè về lịch sử, như nhóm kể chuyện ứng nghĩa Cần vương khởi binh chống Pháp của các nhà yêu nước xứ Nghệ, kiểu Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Nguyên Thành, Lê Doãn Nhã8,… ở tài liệu Ninh (2000, tr. 287-367). Chẳng hạn: “Kể chuyện Phan Đình Phùng khởi nghĩa đánh Pháp” (Ninh, 2000, tr. 287-296), “Kể chuyện Cao Thắng đánh Tây” (Ninh, 2000, tr. 297-302), “Kể chuyện Nguyễn Xuân Ôn khởi nghĩa đánh Tây” (Ninh, 2000, tr. 317-324), “Kể chuyện Nguyễn Nguyên Thành khởi nghĩa đánh Tây” (Ninh, 2000, tr. 334-340), “Kể chuyện Lê Doãn Nhã khởi nghĩa đánh Tây” (Ninh, 2000, tr. 362-367),… Bấy giờ, nhân vật của các bài vè được chia làm hai tuyến: Tuyến kể về tướng lĩnh và nghĩa binh và Tuyến về binh lính thực dân Pháp, cùng quan quân Nam triều. Bên chính nghĩa (chính diện) và đằng phi nghĩa (phản diện).
Bài vè “Kể chuyện Phan Đình Phùng khởi nghĩa đánh Pháp” gồm 138 dòng thơ lục bát, có 32 dòng đầu kể về cuộc đời của ông Đình nguyên, 28 dòng tiếp theo, kể việc ông nhận chỉ thị từ Tôn Thất Thuyết, làm Thống đốc quân vụ đại thần, đặc trách phong trào chống Pháp từ Hà Tĩnh đến Thanh Hoá, và 78 dòng cuối kể sự thành công và tổn thất của cuộc khởi nghĩa. Bên cạnh Phan Đình Phùng, có các tướng Cao Thắng, đội Quyên, đội Văn, quản Đạt, lãnh Chanh… Phía đối phương, bài vè kể việc tuần phủ Đinh Quang, kẻ phản vua Trương Quang Ngọc bị nghĩa quân giết chết, một số quan chức Nam triều khác bị bài vè vạch mặt chỉ tên là “bất nghĩa” và “vô lương”; Đó là Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải,… Tác phẩm nhằm ca ngợi Phan Đình Phùng (cùng chư tướng, nghĩa quân) và lên án bọn xâm lược và lũ tay sai.
Các bài vè được nêu tiếp theo cũng tương tự. Nhưng ở nhiều tác phẩm, chủ yếu lại kể về thủ lĩnh và nghĩa binh, còn phía đối phương thì số lượng lời khá ít ỏi, sự việc được nêu mờ nhạt (như việc kể trận Vụ Quang, trong bài vè “Kể chuyện Phan Đình Phùng khởi nghĩa đánh Pháp” đã khiến “Mấy ngàn lính Pháp xác thì chật sông”, nhưng không nêu cụ thể tên tuổi một ai trong số mấy ngàn lính ấy). Vấn đề cho thấy, tính xác thực, và sự kể lể phải dựa vào những gì mà tác giả nắm bắt được. Đồng thời, việc bài vè thiên về các đối tượng nghĩa khí, thuộc “phe ta”, hơn những kẻ bất lương ở phía “đối phương” (tất nhiên, tác giả các bài vè cũng thuộc bên “chính nghĩa” này), là điều không đến mức khó hiểu.
Việc phân tuyến có tính chất nhạt nét, gồm nhóm các bài vè về phong cảnh đình và làng, nhóm các bài về răn dạy và bảo ban. Các bài “Phong cảnh làng Hương Nha”, “Phong cảnh Phú Cường”, “Bài ca đình làng Tứ Mỹ”, trong mục “vè” của Dương (2012, tr. 60-72), có phần miêu tả cảnh vật xinh tươi của sông núi, đền đài, cả những con người đáng yêu, đáng kính của mỗi làng quê. Trên đại thể, đây là số ít ỏi những bài vè ca ngợi quê hương giàu đẹp, nhằm giáo dục tình cảm yêu nước thương nòi cho người dân. Loại vè này không có nhân vật song tuyến rõ ràng. Nếu cho có hai tuyến đối lập, thì một bên là những lương dân đông đảo, bên kia, được giả định là những kẻ đánh mất nguồn cội, có khi chống lại quê hương mình, mà ở các bài vè đã kêu gọi họ trở về.
Cũng cần nói thêm, tuy cũng chia các nhân vật làm hai tuyến, có điều, tuyến gồm những người tốt, quan niệm đúng đắn và hợp lẽ, lắm khi được thể loại vè cho là hiển nhiên9 nên đặt ngầm ẩn, không cần biểu hiện và phô bày. Tuyến này gồm đa số nhân dân, khoảng 80-90%, thuộc nông dân và thợ thuyền, có phẩm chất và tính cách gồm những điều tốt lành, những quan niệm thuộc truyền thống dân tộc (như cần cù chịu khó, lương thiện thẳng ngay, khôn ngoan, trong sáng,…); Tuyến sau chỉ thiểu số còn lại, đa phần là quan lại, hào lí, và những người sống dựa theo họ, có tâm địa hiểm ác, hoặc chỉ biết cúi đầu tuân lệnh. Những khi đối địch nhau, tuyến đầu tuy đông nhưng lại phục tùng tuyến sau.
Điều được cho là tốt đẹp thuộc quan niệm chung hay tính cách các nhân vật thuộc tuyến đầu, được khẳng định một cách tất yếu, nhiều trường hợp ở thể loại vè không nêu dòng nào mà vẫn không sợ bị hiểu nhầm. Thuộc quan niệm chung, gồm các bài “Đạo ngãi tình thâm” (1), cho trong tình yêu trai gái, thì chung tình là điều cốt lõi; bài “Con gái lỡ thì” (2), cho việc muộn chồng của người con gái sẽ “khốn mà thôi” (“khốn”: Khốn khổ, nguy khốn,…); Bài “Không chồng mà chửa” (3), cho nếu con gái có chửa thì cha mẹ phải tìm chồng (không hẳn là bố của thai nhi) cho con, để tránh mất mặt, tránh bị làng phạt vạ; Bài “Vè làm lẽ” (4) kể người vợ lẽ đau khổ vì “Không biết hơi đàn ông/ Nặng hay nhẹ…”; Bài “Đi chợ ăn quà” (5), người phụ nữ ăn quà khi đi chợ bị chê trách nặng lời; Bài “Vè trộm tre” (6) người mẹ vợ và chàng rể bị vạ làng, do đói nghèo; Bài “Vè uống rượu” (7), người đàn ông uống rượu bị cho là “Như dây bìm bìm/ Sống trên lưng vợ”; Bài “Vè phủ Quốc” (8)10, quan phủ bị chê trách vì “Thiếu gì gái má hồng danh giá” mà đi yêu một cô gái bình thường;… Cơ sở để phê phán và chê bai ở đây xuất phát từ lẽ thường và từ đạo lí dân tộc.
Thuộc tính cách nhân vật11, ở nhóm “Những bài vè nói về đi phu đào sông…” vừa nêu, có hai tuyến nhân vật: Tuyến gồm các trai tráng nông dân, phải vất vả, gian khó trong việc đào sông, họ nhẫn nhục, cam chịu, dù đói khổ, ăn muối nằm sương; Tuyến gồm các quan lại, hào lí, cai đội. Tuyến đầu tuy đông đúc, nhưng chịu sự dẫn dắt, đày ải bởi tuyến sau. Nếu ông hương kiểm và cô gái hư hỏng ở hai bài “Vè hương kiểm” và “Vè gái hư” thuộc loại nhân vật phản diện, thì nhân dân thuộc nhân vật chính diện.
2.3. So sánh kết cấu của vè với kết cấu của một số thể loại thuộc văn học dân gian khác
Kết cấu thường gặp của hầu hết loại truyện kể là chia nhân vật làm hai tuyến đối lập nhau về lí tưởng hay tư cách đạo đức, và câu chuyện phát triển theo hai lực lượng đối kháng ấy. Ở một số thể loại văn học dân gian, như truyện thơ, truyện trạng, bộ phận liên quan của truyện ngụ ngôn, chủ yếu tuân thủ kết cấu này. Dù không triệt để bằng, vè cũng không khác chúng.
Chẳng hạn, truyện thơ “Thoại Khanh, Châu Tuấn”12, kể chuyện nàng Thoại Khanh (con gái Thừa tướng, do cha mẹ mất, cửa nhà sa sút, và phải đi làm thuê kiếm sống), kết duyên cùng chàng Châu Tuấn (một chàng trai nghèo, học giỏi). Châu Tuấn đi thi, đỗ Trạng nguyên. Vua ép gả công chúa nhưng chàng từ chối vì đã có vợ, bị đày sang Tề. Vua Tề lại muốn gả công chúa và truyền ngôi, nhưng bị chàng từ chối, bèn nhốt vào cũi sắt. Công chúa bảo chàng vờ kết hôn, nhờ mưu này mà Châu Tuấn thoát chết. Trong lúc đó, Thoại Khanh ở nhà bị ép duyên, bị đày đoạ khổ sở. Rồi Thoại Khanh đưa mẹ chồng sang Tề tìm chàng. Trên đường đi, nàng chịu nhiều khổ ải (như bị Dâm Thần khoét mắt), nhưng cuối cùng cũng gặp được chồng. Về sau, Châu Tuấn nối ngôi vua Tề, công chúa nước Tề là vợ hai. Vua Tống hối hận, cũng đưa công chúa sang gả tiếp cho chàng, làm vợ thứ ba (Kiều, 2014, tr. 225-275). Tóm tắt này cho thấy, có hai tuyến nhân vật đối kháng nhau trong truyện: Tuyến gồm các nhân vật hiền lương: Thoại Khanh, Châu Tuấn, mẹ của chàng Châu Tuấn,… và Tuyến gồm các nhân vật ác độc, thường dựa vào quyền lực để ức hiếp người vô tội như vua nước Tống, vua nước Tề, Thái thú Tương Tử (tên ép Thoại Khanh lấy mình), Dâm Thần (kẻ khoét mắt Thoại Khanh khi nàng không chịu “giao hoan” cùng hắn).
So sánh với các bài vè có kết cấu phân tuyến, nêu ở Mục 2.2, có thể thấy sự phân tuyến ở thể loại vè đã không triệt để bằng. Ai cũng biết, với những thể loại trần thuật (kể chuyện) bao gồm các sáng tác ngắn (như truyện ngụ ngôn, truyện cười, truyện trạng,…), rất khó phân biệt các khái niệm kiểu kết cấu, cốt truyện, mô hình cấu trúc văn bản,… được hình thành ở đó13. Mặt khác, có thể thấy tuy giữa vè và các thể loại vừa nêu đều thuộc văn học dân gian, nhưng vè không đậm chất văn chương bằng chúng. Bởi trong lúc các thể loại văn học dân gian khác sử dụng các tính chất chủ yếu của văn học, như hư cấu và tạo dựng hệ thống hình tượng để suy nghĩa (thường gọi là thông điệp) của tác phẩm, thì vè không làm điều ấy, mà nêu sự việc một cách trực tiếp và trực diện.
Văn bản vè không quá dài, nhưng cũng không ngắn như các thể loại trên. Với kết cấu gồm ba phần, nhân vật chia làm hai tuyến (nhưng việc phân tuyến này không rõ ràng và cân đối), vè có sự khác biệt không khó nhận ra với một số thể loại văn học dân gian đã nêu. Lí do của việc phân tuyến thiếu sáng rõ ở vè có thể hiểu, do vè sử dụng ngôn ngữ tường minh, cần miêu tả và lí giải ngay sự việc và sự cố có thật xảy ra trong cuộc sống hiện tại và trước mắt, khác với các thể loại truyện kể dân gian khác, như truyện ngụ ngôn, truyện thơ, truyện trạng,… chúng sử dụng hư cấu, nên phần lớn các từ ngữ, hình ảnh do liên tưởng và tưởng tượng mà có.
3. Nhận xét và kết luận
So với các thể loại khác, vè không được giới nghiên cứu quan tâm bằng. Dù vè đã được xác định là một thể loại của văn học dân gian từ lâu, nhưng việc tìm hiểu về nó lại khá ít ỏi. Có nhiều lí do, trong đó, có thể có tâm lí e ngại ở các nhà nghiên cứu, rằng xã hội đã coi những bài thơ dở là vè (mà thơ dở thì nhiều, có điều, thơ dở vẫn là thơ, mà thơ thì “cao” hơn, nên vè càng bị “hạ” thấp)14, và cái “vè vẻ vè ve” nghe thật dân dã, “chán ngán”!15.
Khi nghiên cứu về văn hoá, văn học dân gian, không ít người đã né tránh vè, như Dương (2002), ở công trình Việt Nam văn học sử yếu, sách dùng kèm với nó, là Việt Nam thi văn hợp tuyển, và sách giáo khoa Việt văn Ban Trung học Pháp, đều chưa nói về vè. Nếu thế, thì đây là một tâm lí cần khắc phục, bởi một số nhà nghiên cứu văn hoá dân gian vào loại hàng đầu của đất nước, như Đinh Gia Khánh, Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao, đều có công trình riêng về vè16. Đó là lí do vì sao cho đến nay vè vẫn ít được giới nghiên cứu quan tâm và bài viết này như một cố gắng để bù đắp.
Bên cạnh đó, không khó nhận ra một số hạn chế có tính chất thời đại, của thể loại vè: Ở lĩnh vực quan niệm của vè, có nhiều chỗ hơi quá đáng, mà hiện nay khó thể chấp nhận, như chuyện thuỷ chung chỉ có ý nghĩa khi cả nam và nữ đều thực hiện (ngày trước, chỉ buộc người nữ thuỷ chung, còn nam thì năm thê bảy thiếp mặc lòng), như chuyện đi chợ ăn quà hiện không mấy ai chê trách, như nếu cho độ tuổi “lỡ thì” mà ngoài hai mươi như ngày trước, thì hầu hết con gái thời nay đều mắc phải,… Ở lĩnh vực tính cách nhân vật, các thể chế tiến bộ đều chú ý nâng cao mức sống, điều kiện văn hoá của người dân thuộc các giai tầng xã hội, nhất là tầng lớp trung lưu phải là đa số, để họ làm chủ xã hội (thay vì chỉ một thiểu số như thời phong kiến)… bởi sự bình đẳng nam nữ, sự tôn trọng đời tư cá nhân, cả sự tiến bộ của xã hội,…
Nếu vai trò của tác giả truyện ngắn hay tiểu thuyết ở văn học viết quan trọng trong việc xây dựng hệ thống nhân vật, sự việc, nhằm tạo ra thế giới hình tượng, để nói lên thông điệp của tác phẩm, thì chức năng của người kể vè cũng đáng chú ý, bởi đối tượng này hiện ra một cách cụ thể và rõ ràng17. Bấy giờ, người sáng tạo vè chẳng những không cần che giấu thân phận, mà còn phô bày những quan niệm, tình cảm của bản thân. Và không ít trường hợp, còn công khai cổ động và xiển dương những quan niệm và tình cảm ấy, xem chúng là những nội dung không thể thiếu của bài vè18. Như mười ba bài vè cùng tên “Thân phận người đi ở” (Ninh, 2000, tr. 165-217). Tài liệu vừa nêu đã lên án sự bóc lột tàn tệ, tâm địa nhỏ nhen, và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của các ông chủ, “bài nào cũng bốc lên một mối căm thù sâu sắc đối với bọn nhà giàu” (Ninh, 2000, tr. 165). Dù những người đi ở thuộc chính diện, số ông chủ và nhà giàu thuộc loại phản diện, vẫn cần nhận ra là việc làm giàu và tội phạm là hai khái niệm khác nhau. Người nghèo không có lí do để căm ghét những ông chủ và những người sang giàu trong xã hội19.
Nêu những hạn chế của vè, ngoài việc nhìn nhận sự việc như chúng vốn có, còn cho thấy, nếu vè còn trở lại ở thế kỉ này (hoặc sau đó), thì chúng cần tuân thủ đúng các quy luật của xã hội về nghệ thuật và báo chí.
__________1 Định nghĩa này từ “Tìm hiểu về vè người Việt”, một chuyên luận sắp công bố của người viết bài báo.
2 Có điều, theo quan niệm khá phổ biến hiện nay, thì bố cục thường được coi thuộc lĩnh vực nội dung, trong lúc kết cấu lại thuộc bình diện hình thức, một biểu hiện về giá trị nghệ thuật của một tác phẩm văn học.
3 Theo Ninh (2000, tr. 126), bài vè được nêu kể về ông hương kiểm ở làng Tràng Thành Nam, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, khoảng 1940-1941. Ông này không làm đúng chức trách của mình (là tuần phòng, bảo vệ trị an trong làng), mà ham rượu chè, cờ bạc, cậy quyền thế, làm dân phải khổ nhiều điều (ở tài liệu ấy, tên bài vè là “Vẻ vè ve, bắt vè hương kiểm”).
4 Có thể đọc các phần còn lại của chín bài vè đang bàn ở: a) Bài 1: Trần (1996, tr. 227); b) Bài 2 và Bài 7: Lê (1986, tr. 164, 186); c) Bài 3 và Bài 6: Tôn (2001, tr. 127, 142); d) Bài 4, Bài 5, và Bài 9: Ninh (2000, tr. 67, 126, 439); e) Bài 8: Phạm (1981, tr. 339)
5 “Nhông nhang” tương ứng với “chồng chàng” (một kiểu nói phủ định) – hai dòng cuối đoạn theo lối hát giặm (một lối hát phổ biến ở Nghệ An, Hà Tĩnh).
6 Bài vè kể: Vào năm 1873, vua Tự Đức ngự thuyền đi cửa biển Thuận An (nơi sông Hương gặp biển Đông) để thưởng ngoạn. Bỗng có chín chiếc thuyền tải lương của triều đình chạy từ sông Hương ra gặp phải bọn cướp biển tàu ô (tàu sơn đen của Trung Hoa, ẩn núp trên các đảo, hoặc vùng đất ven bờ, ở miền Bắc, miền Trung Việt Nam, để ăn cướp) mai phục. Vua ra lệnh nả đại bác, nhưng “Bắn thời phát thẳng phát xiên/ Bắn ra chẳng trúng vào thuyền tàu ô” (Tôn, 2001, tr. 149), giặc cướp bắt hai chiếc thuyền lương ngay trước mặt nhà vua. Thấy “thần cơ” vô hiệu, Tự Đức bèn đặt bài vè này để châm biếm các quan mà ông cho chỉ biết “múa mỏ, vảnh râu” (lẽ ra, trước cảnh này, nếu nhà vua lấy sự tồn vong của đất nước làm mục đích phụng sự, sẽ cho đó là điều nguy khốn, và lo chấn hưng quân đội, đằng này, lại đặt mình ra ngoài cuộc và làm vè hòng trách móc, chế giễu các quan!). Một số từ ngữ ở phần trích: Diệu vợi: Sự việc ở một nơi xa xôi, cách trở; Lập lượng: Lượng định, toan tính (điều có lợi cho bản thân); Tờ kín hơi: Tương đương với thành ngữ “lặng như tờ”; Bài vàng, mũ trụ: Thẻ bài bằng vàng, hoặc bằng ngà màu trắng vàng; Mũ hình trụ tròn (dùng cho quan võ); Xuân thu đáo đầu: Thời gian đến hạn (để thăng thưởng như lên chức, lên lương); Tham sinh uý tử: Ham sống sợ chết; Nhằm: Nhắm (vào); Hổ ngươi: Xấu hổ (hổ ngươi trong mình: Xấu hổ, tự thẹn với lương tâm).
7 Thái Bạch: Tên sao, tức Kim tinh. Nhiều người, trong đó có tác giả bài vè, với phần kết đang bàn, đồng nhất nó với nhà thơ đời Đường, là Lí Bạch (701-762), do ông này có tên tự là Thái Bạch. Giáng bút: Bút ghi lại theo sự chỉ bày, hoặc lời lẽ của đấng siêu phàm (thuộc cõi trời, cõi thần tiên) – thường gặp trong các cuộc “hầu bóng”, “cầu cơ”,…
8 Phan Đình Phùng (1847-1895) là người làng Đông Thái, huyện La Sơn (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh; đỗ Đình nguyên (1877), làm quan đến chức Ngự sử; Cao Thắng (1864-1893), người xã Tuần Lễ (nay là xã Sơn Lễ), huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, là danh tướng của Phan Đình Phùng; Nguyễn Xuân Ôn (1825-1889), người làng Quần Phương, xã Lương Điền, huyện Đông Thành (nay là xã Diễn Thái, huyện Diễn Châu), tỉnh Nghệ An, đỗ Tiến sĩ khoa Tân Mùi (năm 1871), làm quan đến chức Ngự sử; Nguyễn Nguyên Thành, người xã Đô Lương, huyện Lương Sơn (nay là xã Đông Sơn, huyện Đô Lương), tỉnh Nghệ An, đỗ Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1851), làm quan đến Hồng lô Tự thiếu khanh; và Lê Doãn Nhã là người làng Trường Sơn, xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, đỗ Phó bảng (1871), làm quan, chức Chánh Sơn phòng (xứ Nghệ An).
9 Lí do được coi là hiển nhiên, vì một mặt, chúng thuộc về đa số, lại có cùng quan niệm chung thuộc về dân tộc, quê hương, đất nước, mặt khác, cần tránh lặp khi diễn đạt (nếu bài vè nào cũng lặp lại điều đã nói, thì sẽ tạo nhàm chán cho người nghe/đọc, bấy giờ, thể loại đang đặt ra cũng khó tồn tại trong xã hội).
10 Có thể đọc tám bài vè dẫn trong đoạn văn này ở: Bài (1): Ninh (2011, tr. 104-107); Bài 2 và Bài 3: Tôn (2001, tr. 103, 101); Bài 4 và Bài 6: Trần (1996, tr. 245, 218); Bài 5: Ninh (2001, tr. 214); Bài 7: Lê (1986, tr. 166); và Bài 8: Phạm (1981, tr. 365).
11 Lưu ý, với văn học dân gian, nói tính cách, hiểu là tính cách của một tầng lớp người nào đó, chứ không phải của cá nhân, cá thể.
12 Sở dĩ chọn truyện thơ này, bởi nó gần gũi với một loạt truyện thơ khác (về mặt đang quan tâm), như “Phạm Công, Cúc Hoa”, “Phạm Tải, Ngọc Hoa”, “Tống Trân, Cúc Hoa”, “Bạch Viên, Tôn Các”, “Truyện Lí Công”, “Truyện Phương Hoa”, “Trương Viên truyện”,…
– Mô hình của truyện ngụ ngôn: 1) Nhân vật kèm tính cách; 2) Nhân vật kèm tính cách đứng trước bối cảnh, điều kiện cần ứng phó; 3) Nhân vật kèm tính cách đứng trước bối cảnh, điều kiện cần ứng phó, đã có hành động đáp trả phù hợp với tính cách của mình; và 4) Nhân vật kèm tính cách đứng trước bối cảnh, điều kiện cần ứng phó, đã có hành động đáp trả phù hợp với tính cách của mình, để giành được thắng lợi hay phải chịu thua thiệt;
– Mô hình của truyện trạng: 1) Tạo mâu thuẫn giữa nhân vật trạng và nhân vật là đối tượng mà trạng cần chiến thắng (theo lối hạ bệ, thuyết phục) – bước thắt nút hay khai đoan; 2) Nhân vật trạng tiến hành các phần việc theo mưu kế của mình, để tấn công đối tượng – bước phát triển; 3) Mưu kế được thực hiện trọn vẹn, nhân vật trạng chiến thắng, đối tượng của nhân vật trạng bị hạ bệ hay thuyết phục – bước đỉnh điểm, cao trào; và 4) Nhân vật trạng hả hê, đối tượng của nhân vật trạng ê đòn (có khi, bước này nhằm giải thích cho bước trước) – bước mở nút, kết thúc.
14 Tài liệu Đinh (1966), dẫn từ Nguyễn (2003, tr. 942), viết: “Vè không tất nhiên là thơ, thơ tất nhiên không phải là vè: Điều đó rất đúng. Nếu cho rằng hễ cứ làm thơ dở thì thành vè là không đúng, là oan cho vè. Có bài thơ hay và bài thơ dở, cũng như có bài vè hay và bài vè dở: Nói như vậy có lẽ chính xác hơn. Nhân dân ta khi sáng tác vè không hề có ý định làm thơ”. Đó là chuyện từ 1966. Gần đây, trên tuần báo Văn nghệ (thuộc Liên hiệp Các Hội văn học nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh), có bài “Trao đổi về bài viết của Nguyễn Trọng Tạo: Hiện tượng vè hoá trong thơ”, của Lê (2018). Tác giả viết, đại ý: Không nên coi thơ dở là hiện tượng “vè hoá trong thơ”, vì vè với thơ tuy cũng có những điểm tương đồng, nhưng có nhiều bài vè còn hay và ý nghĩa hơn thơ.
16 Chỉ kể tên ba vị, bởi họ đều được phong Giáo sư, Phó giáo sư, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (riêng về vè, ít ra, Nguyễn (1965) có Vè Nghệ Tĩnh, 3 tập; Đinh (1966) có bài vừa ghi; Ninh (2000) có Kho tàng vè xứ Nghệ, 9 tập, đã dẫn (ông Ninh được Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2016, nhờ 9 tập vè xứ Nghệ này).
17 Chỗ khác, phía vai trò người kể chuyện ở truyện ngắn và tiểu thuyết với vè, là một bên (văn học viết) càng ẩn danh càng tốt, còn bên kia (văn học dân gian) càng lộ diện càng hay. Điều tương tự cũng xảy ra, khi đối sánh giữa văn học với báo chí, nói chung.
18 Sự nhầm lẫn giữa loại thơ tự sự dở với vè chủ yếu cũng bắt nguồn từ đây. Cần lưu ý, giữa thơ và vè chỉ có hiện tượng tương tự, còn bản chất thì khác biệt, như về chức năng của thơ là tìm kiếm sự đồng cảm, còn của vè là thông tin; Bên có yêu cầu chủ quan, cảm tính (thuyết phục người đọc bằng mọi cách, bởi có yêu thích, mới thể hiện được sự đồng cảm, đồng tình), đằng khách quan, lí tính (sự vật, sự việc thì như vốn có, người lĩnh hội có yêu hay ghét vẫn không khiến chúng khác đi).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dương, H. T. (2012). Văn hoá dân gian huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Văn hoá Thông tin.
Dương, Q. H. (2002). Việt Nam văn học sử yếu. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Hội Nhà văn.
Đinh, G. K. (1966). Cần xác định hơn nữa giá trị của vè, một thể loại văn học dân gian đầy tính chiến đấu. Tạp chí Văn học, (11), 103-106.
Hoàng, P. (1994). Từ điển tiếng Việt. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Khoa học Xã hội.
Kiều, T. H. (2014). Truyện Nôm bình dân. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Khoa học Xã hội.
Lê, B. H., Trần, Đ. S., & Nguyễn, K. P. (2007). Từ điển thuật ngữ văn học. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Giáo dục.
Lê, H. T. (2018). Trao đổi về bài viết của Nguyễn Trọng Tạo: Hiện tượng vè hoá trong thơ. Được truy lục từ http://tuanbaovannghetphcm.vn/trao-doi-ve-bai-viet-cuanguyen-trong-tao-hien-tuong-ve-hoa-trong-tho-so-494/.
Lê, T. V. (1986). Thơ văn Đồng Tháp. Đồng Tháp, Việt Nam: NXB. Tổng hợp.
Nguyễn, Đ. C. (1965). Vè Nghệ Tĩnh. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Văn học.
Nguyễn, X. K. (2003). Tổng tập văn học dân gian người Việt (Tập 19): Nhận định và tra cứu. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Khoa học Xã hội.
Từ điển văn học. (1983). Hà Nội, Việt Nam: NXB Khoa học Xã hội.
Ninh, V. G. (2000). Kho tàng vè xứ Nghệ. Nghệ An, Việt Nam: NXB. Nghệ An.
Ninh, V. G. (2011). Văn hoá dân gian xứ Nghệ. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Văn hoá Thông tin.
Phạm, Đ. D. (1981). Văn học dân gian Thái Bình. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Khoa học Xã hội.
Tôn, T. B. (2001). Vè Thừa Thiên Huế. Huế, Việt Nam: Hội Văn nghệ Dân gian Thừa Thiên Huế.
Trần, H. (1996). Văn học dân gian Quảng Bình. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Văn hoá Thông tin.
Triều, N. (2004). Góc nhìn cấu trúc về truyện ngụ ngôn dân gian Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Khoa học Xã hội.
Triều, N. (2014). Tìm hiểu về truyện trạng Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Triều, N. (2015). Một số khía cạnh triết lí trong truyện trạng. Tạp chí Khoa học Xã hội Miền Trung, (3), 52-60.
Triều, N. (2018). Các thể loại, kiểu tác phẩm dạng tản văn và biền văn trong nền văn học trung đại Việt Nam. Huế, Việt Nam: NXB Đại học Huế.
Xem thêm: Máy Chủ Nhà Cung Cấp Wmi Là Gì (Và Nó Có An Toàn Không), Có Nên Tắt Wmi Hay Không
Việt Nam Học(https://gocnhintangphat.com)Ảnh đại diện: Ban Tu Thư gocnhintangphat.com thiết lập.Ảnh chỉ mang tính chất tô điểm.