Trong tất cả các đệ tử lớn của Đức Phật, Ananda được đề cập là vị tôn giả có mối quan hệ gần gũi nhất vớiĐức Phật lịch sử.Đặc biệt trong những năm cuối đời của Đức Phật, Ananda vừa là thị giả và vừa là người thân cận, gần gũi thân thiết nhất với Phật.Ananda cũng được nhớ đến như là đệ tử đọc lại tất bài giảng của Đức Phật trong suốt những năm Phật thuyết giảng (gọi là kinh) tại lần kết tập kinh điển lần thứ nhất hay gọi làHội đồng Phật giáođầu tiên, sau khi Đức Phật qua đời.
Đang xem: Nguyên nhân tôn giả là gì, tôn giả a nan Đà và những câu chuyện thú vị
Bạn đang xem: Tôn giả là gìBạn đang xem: Tôn giả là gì
Chúng ta biết gì về Ananda?Đầu tiên, Người ta đồng ý rằng Phật và Ananda là anh em họ.Cha của Ananda là anh trai của Vua Suddhodana, nhiều nguồn tin cho biết.Người ta cho rằng khi Đức Phật trở về quê hương Kapilavastu lần đầu tiên sau khi giác ngộ, anh em họ Ananda đã nghe lời giảng của Đức Phật và trở thành đệ tử của Ngài.
Ngoài ra, có một số nhận định khác biệt về cuộc đời Tôn Giả Ananda.Theo một số truyền thống, Đức Phật tương lai và đệ tử Ananda của ông được sinh ra cùng ngày và chính xác bằng tuổi nhau.Các truyền thống khác nói rằng Ananda vẫn còn là một đứa trẻ, có lẽ bảy tuổi, khi anh ta bước vàoTăng đoàn, điều đó sẽ khiến anh ta trẻ hơn Đức Phật ít nhất ba mươi tuổi.Ananda nhập niết bàn sau Đức Phật và hầu hết các đệ tử chính khác, điều đó cho thấy rằng phiên bản sau của câu chuyện có nhiều khả năng hơn.
Ananda được cho là một vị hành giả khiêm tốn, ít nói, hoàn toàn phù hợp làm thị giả cho Đức Phật.Tôn giả cũng được cho là có một trí nhớ phi thường;Ngài có thể đọc lại từng bài giảng của từ Phật sau khi nghe bài giảng đó chỉ một lần.Ananda được cho là đã thuyết phục Đức Phật cho phép phụ nữ được xuất gia và gia nhập vào Tăng đoàn, theo một câu chuyện nổi tiếng.Tuy nhiên, Tôn giả chứng thánh quả Arahant chậm hơn các đệ tử khác và Ngài nhận ra sựgiác ngộhoặc chỉ chứng thánh quả sau khi Đức Phật qua đời, có giả thuyết Ngài thị hiện như vậy là vì muốn dành hết tâm huyết của mình để phụng sự và chăm sóc Đức Thế Tôn cách chu toàn nhất.
Đức Phật
Khi Đức Phật 55 tuổi, Ngài nói với tăng thân Đức Thế Tôn cần một thị giả mới.Vì trong 20 năm đầu, Thế Tôn không có thị giả riêng, khi thìNàgasamàla, khi thìNàgita, khi thìUpavàna,Sunakkhatta, Sa-diCunda, Sàgata, Meghiya.Công việc của Thị giả là sự kết hợp của người hầu, thư ký và người bạn tâm tình.Nhiều nhà sư đã lên tiếng và tự đề cử cho công việc.Tuy nhiên, Ananda vẫn im lặng.Đến khi Đức Phật yêu cầu anh em họ chấp nhận công việc, Ananda chỉ chấp nhận với điều kiện.Tôn giả yêu cầu Đức Phật không bao giờ cho ông ta thức ăn hay Y áo hay bất kỳ chỗ ở đặc biệt nào để vị trí thân cận Đức Phật không đi kèm với lợi ích vật chất.
Ananda cũng yêu cầu đặc quyền thảo luận về những nghi ngờ của mình với Đức Phật bất cứ khi nào Ngài gặp phải vấn đề về giáo pháp.Và Tôn giả yêu cầu Đức Phật lặp lại bất kỳ bài giảng nào cho Ngài nếu tôn giả có thể phải bỏ lỡ trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.Đức Phật đã đồng ý với những điều kiện này, và Ananda phục vụ như là thị giả tinh cần nhất trong 25 năm còn lại của cuộc đời Đức Phật.
Ananda chăm sóc các “công việc” như giặt và vá y áo để Đức Phật có thể tập trung vào việc giảng dạy.Ngài chăm sóc đức Thế Tôn hết mực tận tụy, đem nước, đem tăm xỉa răng, rửa chân, đi theo Thế Tôn, quét phòng cho Thế Tôn. Ban ngày,Anandaở một bên đức Phật, nhắc nhở những điều cần làm; ban đêm cầm đèn và gậy,Anandađi xung quanh phòng đức Phật sẵn sàng đáp ứng nếu Thế Tôn có gọi.Tôn giả cũng truyền lại hoặc thỉnh ý của Phật khi chư tôn giả có việc cần thưa thỉnh và đôi khi đóng vai trò là người gác cổng, để Đức Phật không phải gặp quá nhiều người cùng một lúc hoặc những việc ảnh hưởng đến sức khỏe của Đức Phật.
Sự phổ biến của Pajapati
Câu chuyện về sự thành lập và truyền giới của cácTỳ kheo ni Phật giáođầu tiênlà một trong những phần gây tranh cãi nhất củakinh tạng Pali.Câu chuyện này đã khiến Ananda cầu xin một vị Phật bất đắc dĩ phải xuất gia cho mẹ kế là dì của Ngài, Pajapati, và những người phụ nữ đã đi cùng bà để trở thành đệ tử của Đức Phật.
Đức Phật cuối cùng đã đồng ý rằng phụ nữ có thể trở nên chứng ngộ cũng như nam giới và có thể được xuất gia.Nhưng Phật cũng dự đoán rằng sự có mặt của Ni đoàn sẽ có sự ảnh hưởng nhất định đến tăng thân.
Một số học giả hiện đại đã lập luận rằng nếu Ananda thực sự trẻ hơn Đức Phật hơn ba mươi tuổi, ông vẫn sẽ là một đứa trẻ khi Pajapati tiếp cận Đức Phật để xuất gia.Điều này cho thấy câu chuyện đã được thêm vào, hoặc ít nhất là được viết lại, một thời gian dài sau đó, bởi một người không tán thành Ni giới.Tuy nhiên, Ananda được cho là người ủng hộ quyền của phụ nữ được truyền giới trở thành thành viên của Tăng đoàn.
Niết bàn – Parinirvana
Một trong những bản văn sâu sắc nhất của Pali Sutta-pitaka là Maha-parinibbana Sutta, mô tả những ngày cuối cùng, viên tịch vàparinirvanacủa Đức Phật.Một lần nữa và lần nữa, trong bài kinh này, chúng ta thấy Đức Phật nói với Ananda, thử thách Tôn giả, ban cho Ngài những giáo lý và sự an ủi cuối cùng.Và khi các nhà sư tập hợp xung quanh Phật để chứng kiến Đức Thế Tôn đi vàocõiNiết bàn, Đức Phật đã ca ngợi Ananda, “Tỳ kheo , Bậc Ứng Cúng,A la hán, NhữngvịPhật, các Bậc giác ngộ hoàn toàn của thời đại trước đây cũng có những vị Tỳ kheo xuất sắc và tận tụy, cũng như Đức Thế Tôn, Như Lai có được Ananda. ” hay lúc Thế Tôn tạiJetavana, xác chứngAnandalà vị Tỷ-kheo đệ nhất về năm phương diện: Ða văn, tâm tư cảnh giác, sức mạnh đi bộ, lòng kiên trì và sự hầu hạ chu đáo.
Khai sáng và Hội đồng Phật giáo đầu tiên – Kết tập kinh điển
Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, 500 tu sĩ giác ngộ đã cùng nhau thảo luận về việc giáo lý của Thầy họ có thể được bảo tồn như thế nào.Không có bài giảng nào của Đức Phật đã được viết ra.Trí nhớ của Ananda về các bài giảng đã được tôn trọng, nhưng Ngài chưa nhận ra sự giác ngộ.Anh ấy có được phép tham dự không?
Sự viên tịch của Đức Phật đã giúp Ananda tin tấn, nổ lực và không còn nhiều nhiệm vụ, và bây giờ ông dành hết tâm trí cho thiền định.Buổi tối trước khi Hội đồng bắt đầu, Ananda đã nhận ra sự giác ngộ.Tôn giả tham dự Hội đồng và được sự ủng hộ, thống nhất, nhất trí cao của Tăng đoàn của các vị Thánh kêu gọi Tôn giả tuyên đọc lại những bài giảng của Đức Phật để kết tập thành tạng kinh.
Trong vài tháng tiếp theo, anh ấy đọc thuộc lòng, và hội đồng đã đồng ý cam kết các bài giảng cũng như ghi nhớ và bảo tồn các giáo lý thông qua việc đọc thuộc lòng.Ananda được gọi là “Người giữ gìn kho báu chánh Pháp”.
Lịch sử ghi chép lại rằng, Tôn giả Ananda sống đến hơn 100 tuổi.Vào thế kỷ thứ 5, một số nhà sư là người hành hương từ Trung Quốc đến Ấn Độ đã báo cáo về việc tìm thấy mộtbảo thápgiữ hài cốt của Ananda, vị thánh giả được ni giới hết mực tôn kính, phụng thờ.Cuộc sống của Tôn giả vẫn là một tấm gương mẫu mực của con đường cống hiến và phục vụ.
Các câu kệ của ngài được góp thâu lại và để vào trong tập Trưởng lão Tăng Kệ, khiKhuddaka Nikàya(Tiểu bộ kinh) được tụng đọc.
Những bài kệ đầu được nói lên, khi ngài khuyên các Tỷ-kheo thường thân cận với kẻ theoDevadatta:
1018. Hai lưỡi và phẫn nộ,Xan tham, thích phá hoại,Bậc trí không giao du,Kẻ ác bạn kẻ xấu.
1019. Với bậc tin, dễ thương,Vói bậc trí, nghe nhiều,Bậc Hiền trí, giao du,Kẻ thiện bạn chân nhân.
Các bài kệ sau được nói lên khi nữ cư sĩUttarà, vì nàng đẹp nên thiên về dục vọng và được nói lên để nàng thấy sự mỏng manh của thân nàng. Có người nói các bài kệ này nói lên cho những ai đắm sayAmbapàli:
1020. Hãy xem bóng trang sức,Nhóm vết thương tích tụ,Bệnh hoạn nhiều tham tưởng,Nhưng không gì trường cửu.
1021. Hãy nhìn sắc trang sức,Với châu báu vòng tai,Bộ xương, da bao phủSáng chói nhờ y phục.
Hai câu kệ tiếp được vị Trưởng lão nói lên khi chứng quả A-la-hán, đêm ấy trên giường của mình:
1022. Nghe nhiều, diễn thuyết giỏi,Thị giả bậc Giác giả,Gánh nặng đã đặt xuống,Ràng buộc được thoát ly,Bậc họ Gotama,Ðặt lưng nằm xuống nghỉ.
1023. Các lậu hoặc đoạn tận,Ràng buộc được thoát ly,Mọi chấp trước vượt qua,Khéo đạt được thanh lương,Gánh vác thân cuối cùng,Ðến bờ kia sanh tử.
1024. Pháp an trú trong ấy,Phật bà con mặt trời,Trên đường đến Niết-bànGotama an trú.
Một hômMoggallànangười chăn bò, hỏi ngài lời dạy của đức Phật là gì, có bao nhiêu giáo lý tất cả. Vị Trưởng lão trả lời:
1025. Ta nhận từ đức Phật,Tám mươi hai ngàn pháp,Còn nhận từ Tỷ-kheo,Thêm hai ngàn pháp nữa,Tổng cộng tám tư ngàn,Là pháp ta chuyển vận.
Xem thêm: Đoạn Tụ Là Gì – Thietkewebnhanh
Một hôm, vị Trưởng lão nói cho một người sống bê tha phóng đãng sự nguy hiểm của một đời sống không giáo dục văn hóa:
Những bài kệ tiếp nói cho vị Tỷ-kheo khinh khi những người ít học thua mình:
1028. Hãy kính người nghe nhiều,Chớ hại điều sở học,Ðấy cội gốc Phạm hạnh,Do vậy, hãy trì pháp.
1029. Biết câu trước câu sau,Biết nghĩa, giỏi từ cú,Nắm giữ điều khéo nắm,Suy tìm trên nghĩa lý.
1030. Chính nhờ đức kham nhẫn,Sở nguyện được tác thành,Sau khi đã tinh tấn,Vị ấy lại cân nhắc,Ðúng thời, ra nỗ lực,Nội tâm khéo định tĩnh.
1031. Nghe nhiều, thọ trì phápCó tuệ, đệ tử Phật,Chờ đợi thức tri pháp,Nên thân cận vị ấy.
1032. Nghe nhiều thọ trì pháp,Hộ tạng Ðại ẩn sĩ,Cặp mắt, toàn thế giới,Hãy lễ vị nghe nhiều.
1033. Ưa pháp, vui thích pháp,Luôn suy tư Chánh pháp,Tỷ-kheo nhớ niệm pháp,Diệu pháp không tổn giảm.
Một hôm, ngài đốc thúc vị Tỷ-kheo dao động, biếng nhác như sau:
1034. Thân ích kỷ nặng chăng,Không có ưa hoạt động,Thời gian mòn mỏi qua,Không thể đứng dậy sao?Tham đắm theo thân lạc,Từ đâu, Sa-môn lạc?
Những câu kệ sau, Trưởng lãoAnandađọc lên khi nghe tinSàriputtamệnh chung:
1035. Mọi phương đều mờ mịt,Pháp không khỏi nơi ta,Người bạn tốt đã đi,Tối tăm lan tràn khắp.
1036. Người bạn đã đi qua,Ðạo Sư đã đi qua,Bạn như vậy không còn,Như quán thân hành niệm.
1037. Các vị xưa đã qua,Vị mới ta không hạp,Nay một mình ta thiền,Như chim, khi mưa đến.
Câu kệ tiếp là của bậc Ðạo Sư. Câu tiếp là củaAnanda, hoan hỷ làm theo lời vị Ðạo Sư:
1038. Từ các địa phương khác,Nhiều người yết kiến Ta,Chớ ngăn họ nghe pháp,Nay thời họ gặp Ta.
1039. Từ các địa phương khác,Quần chúng đến yết kiến,Bổn Sư cho họ dịp,Ðể được yết kiến Ngài;Bậc có mắt không có,Từ chối ngăn chận ai.
Năm câu kệ tiếp nêu rõ ngài là bậc thị giả đệ nhất:
1040. Trải hai mươi lăm nămTa chỉ là hữu học,Dục tưởng không khởi lên,Hãy xem pháp, pháp tánh.
1041. Trải hai mươi lăm năm,Ta chỉ là hữu học,Sân tưởng không khởi lên,Hãy xem pháp, pháp tánh.
1042. Trải hai mươi lăm năm,Ta hầu hạ Thế Tôn,Với thân nghiệp từ hòa,Như bóng không rời hình.
1043. Trải hai mươi lăm nămTa hầu hạ Thế Tôn,Với khẩu nghiệp từ hòa,Như bóng không rời hình.
1044. Trải hai mươi lăm năm,Ta hầu hạ Thế Tôn,Với ý nghiệp từ hòa,Như bóng không rời hình.
1045. Khi đức Phật kinh hành,Ta đi theo sau lưng,Khi pháp được thuyết giảng,Trí khởi lên nơi ta.
1046. Ta vẫn còn là người,Có việc cần phải làm,Ta chỉ là hữu học,Tâm ý chưa chứng đạt,Ðạo Sư nhập Niết-bàn,Ai sẽ từ mẫn ta.
1047. Như vậy thật khủng khiếpNhư vậy thật kinh hoàng,Khi bậc toàn tuyệt hảo,Bậc Giác ngộ Niết-bàn.
Ba câu kệ tiếp, do các vị dự kỳ kiết tập thêm vào để tán thán Trưởng lãoAnanda:
1048. Nghe nhiều, thọ trì pháp,Hộ tạng Ðại ẩn sĩ,Cặp mắt toàn thế giới,Anan nhập Niết-bàn.
Xem thêm: Khung Ngắm Điện Tử Là Gì (Electronic Viewfinder Là Gì ? Có Bao Nhiêu Loại?
Câu kệ này đượcAnandanói lên khi nằm trên giường, trong giờ phút cuối cùng:
1051. Ta hầu hạ Bổn Sư,Lời Phật dạy làm xong,Gánh nặng đã đặt xuống,Gốc sanh hữu nhổ sạch.