Dựa trên bài viết của GS Nguyễn Văn Tuấn – Viện Nghiên Cứu Garvan, Australia – người Thầy, nhà khoa học, xin trình bày lại từng phần (có tham khảo thêm các bài viết khác & ý kiến cá nhân Trung Huynhh) để các bạn tiện theo dõi. Cảm ơn bài viết mà Thầy Nguyễn Văn Tuấn đã cung cấp (tiếp theo phần 5 và 6)
Abstracts: Thí nghiệm (experiment) là một bước cực kì quan trọng để thu thập và phân tích dữ liệu, đi đến kết luận liên quan đến câu hỏi nghiên cứu. Có nhiều phương pháp thí nghiệm, chẳng hạn như: nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial – RCT), nghiên cứu bệnh chứng
Sau khi đã có giả thuyết, bước kế tiếp là làm thí nghiệm (experiment). Thí nghiệm ở đây nên hiểu một cách rộng hơn, chứ không đơn thuần có nghĩa thí nghiệm trong phòng thí nghiệm. Một nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial – RCT) mà theo đó một nhóm bệnh nhân được chia thành hai nhóm nhỏ (nhóm được điều trị và nhóm chứng không được điều trị) được xem là một thí nghiệm – thí nghiệm lâm sàng. Một nghiên cứu bệnh chứng cũng là một thí nghiệm. Thí nghiệm là một bước cực kì quan trọng để thu thập và phân tích dữ liệu, đi đến kết luận liên quan đến câu hỏi nghiên cứu.
Đang xem: Phương pháp thí nghiệm là gì, một số phòng thí nghiệm hay gặp
Do đó, có thể nói rằng nghiên cứu là một chu trình khép kín. Bắt đầu từ câu hỏi nghiên cứu, nhà khoa học phát biểu giả thuyết, rồi tiến hành thí nghiệm để kiểm định giả thuyết đó. Một công trình nghiên cứu tốt thường mở ra một định hướng mới, và nhiều câu hỏi nghiên cứu mới. Chẳng hạn như câu hỏi “Tại sao người nông thôn có làn da sậm hơn người thành thị”, sau khi có câu trả lời (ví dụ) là do vitamin D, thì nó sẽ mở ra hàng loạt nghiên cứu mới: tại sao người thành thị hay thiếu vitamin D; yếu tố nào quyết định nồng độ vitamin D trong máu; vitamin D ảnh hưởng đến bệnh nào; nồng đồ vitamin D tối ưu là bao nhiêu; v.v. Một công trình nghiên cứu không mở ra một hướng mới là một công trình không xứng đáng để theo đuổi.
Abstracts: tiêu chuẩn gì để đánh giá cách viết đề cương nghiên cứu là “tốt” hay “dở”, có 5 tiêu chuẩn: trong sáng, đơn giản, chính xác, khách quan, và cấu trúc logic.
Thí nghiệm cần phải có qui trình và kế hoạch. Những qui trình và kế hoạch này phải được hoạch định (trước khi tiến hành nghiên cứu) trong một tài liệu mà tiếng Anh gọi là Research Proposal, và dịch sang tiếng Việt là “Đề cương nghiên cứu”. Tôi muốn hiểu hai chữ đề cương như sau: “Đề” là đề nghị, đề xuất; và “cương” là cương lĩnh. Đề cương nghiên cứu, do đó, là một tài liệu mà trong đó nhà khoa học đề nghị cương lĩnh hay chương trình làm việc. Đây là tài liệu quan trọng nhất trong một công trình nghiên cứu, vì qua đó mà cơ quan tài trợ có thể xét duyệt cấp kinh phí.
Thế thì câu hỏi đặt ra là tiêu chuẩn gì để đánh giá cách viết đề cương nghiên cứu là “tốt” hay “dở”. Kinh nghiệm cá nhân tôi cho thấy có 5 tiêu chuẩn: trong sáng, đơn giản, chính xác, khách quan, và cấu trúc logic.
1) Trong sáng: có nghĩa là tránh những câu văn rườm rà, những từ khó hiểu. Nếu viết “Nồng độ insulin ở nhóm điều trị cao hơn” thì sẽ không rõ ràng, vì người đọc không biết cao hơn nhóm nào. Ngay cả cách viết “Nồng độ insulin ở nhóm điều trị cao hơn nhóm chứng” cũng có thể nói là chưa đạt, bởi vì câu văn đó hàm ý nói rằng tất cả bệnh nhân trong nhóm điều trị đều có nồng độ insulin cao hơn nhóm chứng – một tình huống rất khó xảy ra. Trong thực tế thì “Tính trung bình, nồng độ insulin ở nhóm điều trị cao hơn nhóm chứng” có lẽ rõ ràng hơn.
Xem thêm: So Sánh Đèn Sodium Là Gì Cấu Tạo,Sơ Đồ Cách Đấu Nối Và Giá Bán Năm 2018
2) Đơn giản: có nghĩa là dùng từ ngữ dễ hiểu, chính xác, và câu văn ngắn. Trong tiếng Việt có những câu chữ rất dài để mô tả một ý, nhưng nếu đọc kĩ có thể viết ngắn gọn hơn. Thay vì dùng những danh từ gốc Hán, chúng ta nên cố gắng dùng những danh từ gốc Việt.
3) Chính xác: là định lượng hoá nội dung thông tin. Tránh những từ ngữ mù mờ. Tiếng Việt ta (và tiếng Anh cũng thế) có những chữ như khoảng, xấp xỉ, độ, gần, đa số, phần lớn, nói chung, v.v. không mang tính định lượng cao. Khoa học là cân đo đong đếm, nên cố gắng viết một cách định lượng. Khó biết bao nhiêu là đa số, 80% hay 90% là đa số? Thay vì viết “Đa số bệnh nhân …”, chúng ta nên viết (nếu có số liệu) “80% bệnh nhân …” thì sẽ rõ ràng hơn. Trong khoa học không có chuyện “nói chung”.
4) Khách quan: là cách viết phi cảm tính, và nhất là không “nhét chữ vào miệng người đọc”. Thay vì viết “Sự khác biệtrất có ý nghĩa lâm sàng”, thì nên viết “Sự khác biệt có ý nghĩa lâm sàng” rồi trích dẫn con số hay dữ liệu để người đọc phán xét. Khách quan cũng có nghĩa là tránh giả định (kiểu như Ai cũng biết rằng …). Tuân theo nguyên tắc khách quan còn có nghĩa là tránh những câu văn không có chứng cứ.
5) Cấu trúc logic là phải cố gắng sắp xếp ý tưởng một cách có trước có sau, khúc chiết. Có một thống kê
Cái khác biệt chính giữa các câu văn có lẽ không phải nội dung, mà là vị trí nhấn mạnh ý tưởng. Câu hỏi đặt ra là trong một câu văn, cần nhấn mạnh phần nào: phần đầu, phần giữa, hay phần cuối? Các chuyên gia về viết văn khuyến cáo rằng nên dùng phần đầu để nhấn mạnh điểm chính yếu. (Cũng có chuyên gia đề nghị nên dùng phần cuối câu văn để nhấn mạnh). Nên mở đầu câu văn với một từ khoá, nếu chúng ta muốn người đọc chú ý đến chủ đề đó. Trong câu loãng xương là một vấn đề y tế quan trọng, ý tôi nhấn mạnh đến loãng xương. Tuy nhiên, nếu tôi viết Một trong những vấn đề y tế quan trọng nhất hiện nay là loãng xương, thì cũng nói lên cái ý đó, nhưng có lẽ người đọc sẽ hiểu rằng tôi đang nhấn mạnh đến khía cạnh y tế hơn là loãng xương.