GH Việt Nam Giáo Phận Chủng Viện Thông Báo Suy Niệm Thời Sự Phụng Vụ Đức Tin Mục Vụ Linh Mục – Tu Sĩ Sứ Vụ Media Tư Liệu GH Toàn Cầu Khác Tư Liệu GHVN Khác

*

Hình:unsplash.com

KHÁI NIỆM THẾ TỤC HÓA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀLIÊN QUAN

Tác giả: P. Gilles BercevilleNgười dịch: Lm. Phêrô Trần Ngọc Anh

MỘT CÁI NHÌN SƠ KHỞI

Khái niệm thế tụchóa khá phức tạp. Vào thời đương đại, khái niệm này mang nghĩa rất rộng. Nó đượcsử dụng trong những lãnh vực tri thức khác nhau: luật pháp, lịch sử, xã hội học,triết học và thần học. Người ta bàn về khái niệm này và hiện tượng thế tục hóaít nhiều cách trung hòa (neutre) hoặc có chính kiến, với một lượng cảm xúc tiêucực hoặc tích cực ít nhiều mạnh mẽ. Các biểu đề liên quan đến sự kiện thế tụchóa thường mơ hồ, với những nguy cơ biến chuyển khó kiểm soát, đi từ ý niệm nàysang ý niệm kia, từ kiến thức sang mệnh lệnh, từ mệnh lệnh sang kiến thức.

Đang xem: Chủ nghĩa thế tục là gì, chủ nghĩa nhân văn thế tục là gì

Như thế, suy tư vàtranh luận về sự kiện thế tục hóa không thể miễn trừ việc đưa ra một cái nhìnsơ khởi để các cuộc trao đổi được sáng sủa và tự do hơn. Quả là khi nói đến thếtục hóa, ta cần phải luôn đặt vấn đề: đâu là nghĩa của hạn từ thế tục hóa trongmột bối cảnh như thế? Đâu là lãnh vực tri thức mà việc phân tích sự kiện thế tụchóa nêu lên? Phải chăng người ta chỉ nhắm đến một nhận định đơn thuần, hay một giảithích, một quyết định?

I. NÒNG CỐT CHUNG CHO CÁC TỪ (NOYAU SÉMANTIQUE COMMUN)

Việc sử dụng từsécularisation mang tính loại suy: điều này có ý nói rằng hạn từ này được dùngđể diễn tả nhiều ý nghĩa; mà mỗi ý nghĩa, theo cách của nó, lại gắn với mộtnòng cốt chung cho các từ.

Nòng cốt chung củakhái niệm sécularisation có thể đượcphát biểu như sau: trong tất cả những cách sử dụng của từ này, “sécularisation” được dùng để chỉ mộtchuyển biến, từ một thực tại, một tình trạng gắn liền cách nào đó vớiThiên Chúa hoặc “cái thiêng”, tức gắn liền với thần linh, sang một tìnhtrạng mà mối liên hệ này bị lơi lỏng hoặc thậm chí bị cắt đứt. Từ nguyên của sécularisation tương ứng cách chính xácvới nòng cốt này: tiếp tố (suffice) “-isation” chỉ ra một tiến trình; thân từ(radical) “sécular-” cho thấy từ La-tinh saeculum,trước tiên chỉ (a) khoảng thời gian một thế hệ; rồi (b) một thời đại nàođó, một thời kỳ, một “thế kỷ”; rồi (c) phạm vi của sự chuyển động, sự thay đổi,sự tạo thành, đối nghịch với aeternum,với vĩnh cửu, với những gì không khởi đầu không kết thúc, không thayđổi, với Thiên Chúa. Sécularisationlà một bước chuyển ít nhiều được hoàn tất, đi từ aeternum sang saeculum.

Như thế, chúng tađã xác định ra 4 thành phần luôn có mặt khi khái niệm này được sử dụng: một thựctại (A) bị tác động bởi tiến trình thế tục hóa; cái thiêng hoặc cái thánh (D);một mối liên hệ đặc biệt kết nối lúc ban đầu A với D (L), tức tình trạng mà mốiliên hệ này bị lơi lỏng, thậm chí biến mất (B).

II. LỊCH SỬ CỦA KHÁI NIỆM VÀCÁC LÃNH VỰC ỨNG DỤNG KHÁC NHAU: LUẬT PHÁP, LỊCH SỬ, XÃ HỘI HỌC, TRIẾT HỌC.

Cách sử dụng đầutiên của hạn từ này thuộc lãnh vực luật pháp. Nó có gốc gác từ đất Pháp, và đãđược sử dụng từ cuối thế kỷ XVI. Ở thế kỷ XVIII, ta có thể thấy nó trong cáctác phẩm của Voltaire chẳng hạn. Lúc bấy giờ, hạn từ này chỉ:

1.Việc chuyển từ một tài sản (A) trước đó thuộc về (L) Giáo Hội (D) sangmột thực thể thế tục, nay trở nên sở hữu chủ: chẳng hạn Nhà Nước. Ta có thểnghĩ đến một bệnh viện, một trường học, một tòa nhà, những bất động sản của mộtdòng tu… bị quốc hữu hóa.

2.Sự quay trở về (“rút lại, thu lại” ) của một người (A) từ bậcsống thánh hiến cho Chúa (D) qua các lời khấn (L) sang bậc sống ở đời(B).

Trong tiếngLa-tinh, người ta thấy từ saecularizatiotrong bộ Giáo luật 1983, đề cập đến việc một người được gỡ bỏ các lời khấn: indultum saecularizationis GL 684,2. Tuynhiên, hạn từ này có lẽ được tiếng La-tinh vay mượn từ những ngôn ngữ bản địa;nó đã chuyển từ luật dân sự sang giáo luật. Hạn từ này vắng bóng trong các vănkiện của Công Đồng Vaticanô II. Nó được sử dụng lần đầu tiên trong các bản văncủa Huấn Quyền, tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Ngoại Thường năm 1985. Thế rồi, từgiữa thế kỷ XX, nó được dùng theo nghĩa rộng trong lãnh vực xã hội học, triết họcvà thần học.

Vào thế kỷ XX, tạiĐức và Hoa Kỳ, quả thực, xã hội học và triết học đã sử dụng ồ ạt khái niệm thếtục hóa để chỉ 1) việc “thay nhãn hiệu” các tư tưởng Kitô giáo mà triết học hiệnđại kế thừa; và theo nghĩa rộng hơn, để chỉ 2) một hiện tượng văn hóa xã hội (socio-culturel)chung, đánh dấu việc thế giới phương Tây, ngày càng ít bị các Giáo Hội Kitô ảnhhưởng.

1) Hiện tượng thế tụchóa như sự “thay nhãn hiệu” các tư tưởng Kitô giáo: trong các bản văn của MaxWeber, nhà xã hội học người Đức (Nền ĐạoĐức Tin Lành Và Tinh Thần Của Chủ Nghĩa Tư Bản, 1904-1905) và của triết giangười Đức Carl Schmitt (Thần Học Chính Trị,1922), xuất hiện ý tưởng về sự chuyển biến từ những khái niệm và nhữngvấn đề thuộc phạm vi tôn giáo được đặt ra sang phạm vi thế tục. CarlSchmitt sử dụng lần đầu tiên hạn từ Säkularisation,một từ mới tiếng Đức họa theo từ “sécularisation”,tiếng Pháp. Ông quả quyết: “Tất cả những khái niệm hàm súc của lý thuyết hiện đạivề Nhà Nước đều là những khái niệm thần học bị thế tục hóa”. Cũng một ý tưởng nhưthế -về sự chuyển dịch các khái niệm tôn giáo lúc ban đầu vào trong những hệ thốngtư tưởng hiện đại- đã được Karl Löwith lấy lại trong lãnh vực triết học lịch sử(Lịch Sử Và Cứu Độ, Chicago, 1949) vàđược Eric Voegelin (Cologne 1901- Stanford 1985) lấy lại trong lãnh vực chínhtrị.

Tại Pháp, người tathấy -từ năm 1936- cùng cách sử dụng động từ “séculariser” nơi JacquesMaritain: Maritain nói đến ý tưởng cách mạng như một sự “chuyển đổi -qua thế tục-ý tưởng về cuộc chung thẩm và Nước Thiên Chúa” (Thuyết Nhân Bản Toàn Diện, tr. 66). Albert Camus viết năm 1951 vềNietzsche: “Kết luận nghịch lý nhưng đầy ý nghĩa của Nietzsche đó là Thiên Chúađã chết bởi chính Kitô giáo, trong mức độ mà tôn giáo này đã thế tục hóa cáithiêng… là bước mang tính quyết định -mà ông (Nietzsche) đã hoàn tất nơi tinhthần nổi loạn- cốt ở việc nhảy từ việc phủ nhận lý tưởng sang việc thế tục hóalý tưởng” (Người Nổi Loạn, tr. 93 và103).

2) Trong các côngtrình nghiên cứu xã hội học sau năm 1945 và nhất là kể từ năm 1960, hạn từ nàycó một giá trị sâu hơn, đến mức nó được dùng để chỉ cách chung sự xuống dốc củacác Giáo Hội và của những xác tín trong các xã hội hiện đại.

Hiện tượng này chothấy một bộ mặt kép (P. Berger, Tôn GiáoTrong Ý Thức Hiện Đại, 1971):

a)Một bộ mặt khách quan, cơ chế: giải phóng xã hội khỏi tôn giáo. Một xã hội (A)truyền thống có nền tảng tôn giáo (L) trở thành một xã hội hiện đại (B) thoátkhỏi sự chi phối của các Giáo Hội (D). Cuộc cách mạng Pháp đã trước nhất áp đặtý tưởng về một Nhà Nước thế tục, độc lập với hàng giáo sĩ, trung lập đối với mọitôn giáo. Các biểu tượng tôn giáo dần dà biến mất ở những nơi công cộng.

b)Một bộ mặt chủ quan, văn hóa, mang dấu ấn những não trạng, tinh thần và cách xửsự của các cá nhân: một động tác đi theo hướng hủy bỏ “tâm tình tôn giáo” (lereligieux) trong thế giới, làm tiêu tan mọi vấn đề tôn giáo được đặt ra. MaxWeber đã từng nói đến sự “vỡ mộng” của thế giới (hay nói chính xác hơn: sự “giảima thuật” ) của thế giới,gây ra bởi Do-thái giáo và Kitô giáo, khi các tôn giáo này đưa ra niềm tin sángtạo; và đạo Tin lành đã hoàn tất sự vỡ mộng này. Thiên Chúa siêu vượt khỏi loàithụ tạo; thiên nhiên bị Kinh Thánh giải thiêng, và được trao phó cho trách nhiệmcủa con người.

Khi chỗ đứng dànhcho các bận tâm tôn giáo giảm sút nơi các tín đồ của một tôn giáo, người ta nóiđến “sécularisation” của tôn giáotheo nghĩa chung của hạn từ này (C. Glock, R. Stark, Tôn Giáo Và Xã Hội Ở Thế Căng Thẳng , 1965).

Chiều kích chủ quancủa sự thế tục hóa tương ứng với bước chuyển từ một não trạng và từ một cuộc hiệnhữu (A), bị chế ngự bởi việc cậy dựa (L) vào Thiên Chúa (D) sang một não trạngvà một cuộc hiện hữu, nơi mà sự cậy dựa này đã bị thu hẹp lại, bị suy yếu hoặcthậm chí đã biến mất (B).

Xem thêm: Sàn Upcom Là Gì ? Cách Thức Giao Dịch Trên Sàn Upcom Sàn Upcom Là Gì

Trong việc nghiên cứuhiện tượng xã hội và văn hóa của sécularisation,cần phải phân biệt kỹ càng ba mức tiếp cận khó có thể tách biệt. Mức nhận định (constat): chẳng hạn quan sátviệc Giáo Hội ở Châu Âu phải mất đi một số dạng của cải vật chất và quyền lựcxã hội; mức giải thích (interprétation):sự mất mát này, sự giảm sút việc thực hành đạo có phải là những chuyện chẳng thểtránh khỏi hay không, có tốt hay không; mức dựphóng (projet): một sự mời gọi cam kết tán thành hay chống lại một tiếntrình như thế. Chủ trương tục hóa(laïcisme) phóng khoáng sẽ chiến đấu để “tâm tình tôn giáo” (le religieux)biến mất khỏi lãnh vực công cộng và hoàn toàn tiệt trừ nó ra khỏi tâm trí của từngcon người. Chủ trương thế tục hóa ôn hòahơn sẽ chỉ bảo vệ sự tự trị của các thực thể chính trị. Một chính trị gia Hồigiáo chẳng hạn sẽ chống lại việc áp dụng luật charia trong xứ mình nhưng không từ bỏ đạo Hồi. Chủ trương cực đoan (intégralisme) hoặc chủ trương bảo thủ quá khích(intégrisme) sẽ đề cao sự thống trị của tôn giáo -cách toàn trị nhất có thể-trên các tổ chức công cộng và cuộc sống của các cá nhân (từ “intégriste” xuấthiện với đảng “Partido integrista”, được lập năm 1890; đảng này cổ xúy việc Nhànước phụ thuộc vào Giáo Hội Công giáo ở Tây Ban Nha). Trong suy tư rất mực sànhsõi và được biện luận vững vàng như của sử gia và triết gia Marcel Gauchet, thìsự kiện các tổ chức Công giáo bị mất ảnhhưởng từ cuối thời Trung cổ ở Tây phương được giải thích như hệ quả của tín điều Nhập thể của Kitô giáo (sau mườilăm thế kỷ “ấp ủ”): Kitô giáo là tôn giáo đã cho phép việc ra khỏi tôn giáo.<1>Kitô giáo vừa là “người chủ xướng vừa là nạn nhân” của sự ra khỏi này. Việc rakhỏi tôn giáo cho phép một “thế giới tự lập” xuất hiện: “cộng đồng nhân loạinay đi đến chỗ tự định nghĩa từ chính mình”. Thế giới này là thế giới của nhữngnền dân chủ tân thời. Gauchet thừa kế dựphóng (projet) giải phóng của thời Ánh sáng và ông hy vọng là cuộc khủng hoảngcủa các nền dân chủ hiện nay sẽ được chế ngự để đi đến một hình thức “dân chủcao hơn” (“démocratie supérieure”): “chúng ta sẽ đi xa hơn, từ chỗ ra khỏi tôngiáo, đến một hoạt động tập thể tự trị nhiều hơn, đến một sự đào sâu chủ thểchính trị” (La condition historique, 2003,tr. 336).

Cần lưu ý rằng giảđịnh về việc tôn giáo bị suy tàn có thể che khuất một phương diện của tính hiệnđại và sự kiện thế tục hóa, đó là việc “tâm tình tôn giáo” được tái tạo trong mộtthế giới mà tâm tình tôn giáo khôngcòn là cái khung xã hội cứng ngắc, nơi tất cả đều phải nằm dưới sự theo dõi sítsao của hàng giáo sĩ. Nếu đa phần những người đương thời của chúng ta từ chối–như từ chối một sự can thiệp không chính đáng- các giới luật của những định chếtôn giáo trong các lãnh vực mà sự tự do lựa chọn là một điều kiện của sự toàn vẹncá nhân thì các chọn lựa chính trị hoặc đời sống tính dục chẳng hạn, những xáctín và những thực hành tôn giáo không biến mất, nhưng được các cá nhân đánh giávà biến đổi: các nhà xã hội học nói đến “một mớ hỗn tạp” (“bricolage”) theo kiểunói của Claude Lévi-Strauss.

Như thế, chúng tathấy phát triển một tình cảm tôn giáo (religiosité) bên ngoài các định chế vàcác khung truyền thống. Cái thứ hỗn tạp vừa huyền bí vừa ngoại lai(mystico-ésorétique) của các phong trào tôn giáo mới đã gia tăng, bao gồm nhữngtrào lưu; những trào lưu này lấy hứng -ít nhiều cách hỗn hợp (syncrétique)- từcác luận thuyết Đông phương xưa cổ hoặc bí truyền. Tương hợp với tính tân thờibị tục hóa, các luận thuyết này tìm kiếm một hạnh phúc trọn vẹn ngay ở trầngian; chúng nhấn mạnh giá trị của trải nghiệm cá nhân thường làm tổn hại đếntruyền thống; chúng chấp nhận một quan niệm nhất nguyên về thực tại, đồng thờibác bỏ sự tách biệt thần linh/con người (divin/homme).

Nhưng ý nghĩa của“cái thiêng”, trong những xã hội tân thời bị thế tục hóa, cũng có thể nằm trongmột cái khung hữu lý (rationel); khung này đưa vào một hệ thống các giá trịnhân bản (une “axiologie”) tiếp nhận sự thỏa thuận chung (consensus) rộng rãi củadư luận: nền dân chủ đa nguyên, các quyền của con người, sự bao dung, việc tìmkiếm những cách giải quyết phi bạo lực các cuộc xung đột. Yves Lambert đề nghịcông thức “tôn giáo các giá trị” (Le Débat <59>, 1990). “Cái thiêng khôngbiến mất khỏi các xã hội, nhưng tách rời khỏi các thẩm quyền trước đây -theotruyền thống- có trách nhiệm với nó. Nội dung của đức tin gồm các giá trị, đượccoi trọng và được lựa chọn, không tùy thuộc vào việc chúng có tương hợp với quyluật truyền thống hay không, nhưng là đối chiếu với những giá trị mà chúng trảinghiệm trong cuộc sống hàng ngày, với những gì đem lại ý nghĩa”.

Dù mang hình thứcnào đi nữa thì việc duy trì và tái tạo “tâm tình tôn giáo” trong bối cảnh thế tụchóa cho thấy nỗi khao khát không thể tiết giảm của con người về tha tính(altérité) và thế giới siêu việt (transcendance). Những xác tín tôn giáo có thểđược xem –theo quan điểm xã hội học- như những tác nhân phát huy các giá trịnhân bản, tạo ra khả năng để đặt lại vấn đề cách triệt để những diễn từ chínhthức của các chính trị gia, các kinh tế gia và các nhà văn hóa.

Các phân tích xã hộihọc và lịch sử về sự kiện thế tục hóa thật ra không bao giờ là những nhận định (constats) thuần túy:chúng luôn lệ thuộc vào những cách giảithích và những dự phóng, xuấtphát từ suy tư triết học, thậm chí thần học.

III. CÁC KHOA THẦN HỌC VỀ THẾTỤC HÓA. LẬP TRƯỜNG CỦA HUẤN QUYỀN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO.

Trong các Giáo HộiTin Lành, một số tác giả viện đến thần học Lutherô về sự công chính hóa duy bởiđức tin mà không cần đến việc làm, và về sự phân biệt hai Vương quốc: Vương quốcThiên Chúa và Vương quốc con người, để hợp pháp hóa sự thăng tiến một thế giớitrần tục và một lý trí tự trị. Nhà thần học Lutherô Friedrich Gogarten(1887-1967) đồng nhất hóa “thế giới” với “các việc làm” theo nhãn quan củaPhaolô. Con người tội nhân, con người đức tin, tin vào những thực hành ở trongthế giới, như thể thế giới tự mình có thể mang đến phúc cứu độ. Con người đứctin, nhờ tự do trước thế giới mà biết rõ sự nghi hoặc và tính đôi chiều về luânlý và tôn giáo của nó nên họ chỉ tin vào Thiên Chúa. Đức tin là sự vâng phụctrước tiếng gọi của Thiên Chúa và là trách nhiệm của con người, xét như chủ thểlịch sử.

Dietrich Bonhoeffer(1906-1945), do đo lường được tính triệt để của những biến đổi mà thời hiện đạimang đến, đã thấy được ở đó một cơ may cho đức tin. Trong các lá thư viết trongtù, ông đảo ngược thuyết vô thần của triết gia người Đức Feuerbach (1804-1872):con người phải nên như trống không, chẳng còn bản thể riêng của mình để nuôi dưỡngbản thể của Thiên Chúa: “để Thiên Chúa trở nên mọi sự thì con người phải chẳnglà gì”. Bonhoeffer nhìn nhận nơi Đức Giêsu một vị Thiên Chúa đã hủy mình rakhông (kénose) để con người được giàucó, để họ đạt đến tình trạng trưởng thành thật sự. Con người được giải thoát khỏisự vong thân tôn giáo nhờ vào mặc khải về một vị Thiên Chúa yếu hèn và đau khổnơi Đức Giêsu Kitô. Được giải thoát khỏi mọi não trạng và thực hành ma thuật,con người hoàn toàn đón lấy trách nhiệm về thế giới được trao cho họ. Đức tinkhiến họ sống -trước mặt Thiên Chúa- trong một thế giới thế tục hóa. Chính sự dấnthân của họ ở trần gian làm chứng cho Thiên Chúa cứu độ. Bonhoeffer đề nghị mộtKitô giáo phi-tôn-giáo (a-religieux). Theo ông, một số tác giả như Thomas J. J.Altizer (sinh 1927) còn đi đến chỗ ca tụng một thuyết vô thần Kitô giáo(athéisme chrétien).

Một tác phẩm có ảnhhưởng lớn là tác phẩm của nhà thần học người Mỹ Harvey Cox: cuốn The Secular City (1965). Thành đô trầnthế kỹ thuật, “technopolis”, là một loại xã hội mà phận vụ của nó là thoát khỏimọi điều khiển của tôn giáo. Ngay cả khi nền văn minh kỹ thuật có những ngẫu tượngcần phải tố giác thì sự xuất hiện của nó vẫn là một cơ may cho đức tin. Quả vậy,con người được kêu gọi loại bỏ mọi ma thuật không chỉ trong thế giới, mà cảtrong tôn giáo, theo động năng của Tin lành được Max Weber đưa ra ánh sáng. Phảitrục xuất ý nghĩa của “cái thiêng” ngay cả trong đời sống Kitô giáo. Sự thế tụchóa gắn liền với sự giải thiêng (désacralisation). Chúng cho phép nhân loại đạtđến một thời đại trưởng thành. Vị Thiên Chúa được loan báo cho xã hội trần thếchỉ có thể là Thiên Chúa, nhờ hoạt động xã hội và chính trị của những người làmchứng cho điều đó.

Các khoa thần học vềthế tục hóa xuất phát từ các Giáo Hội Cải cách đã gây được tiếng vang lớn trongmột số môi trường Công giáo. Tuy nhiên, chúng nay đã lỗi thời. Ngày nay, ngườita đã giã từ thời hiện đại đầy hứa hẹn, gắn liền với huyền thoại Tiến bộ, để bướcvào thời khủng hoảng, dưới tác động của một tương lai đáng lo ngại (tai họa hạtnhân; hư hoại môi trường; chênh lệch về kinh tế và văn hóa ngày càng tăng…).Trong bối cảnh mới này, các khoa thần học về thế tục hóa đã bị phê bình là nhữngý thức hệ, những diễn từ nhằm hợp pháp hóa một tình trạng và nhằm trấn an:chúng khuấy trộn nhận định (constat), giảithích (interprétation) và dự phóng (projet). Do không đẩy thật xa việc khảosát lịch sử và phân tích xã hội học, chúng nhìn một sự kiện trước mắt (état defait), tức sự kiện thế tục hóa, như một tình trạng đáng lý phải là (état dedroit). Sự đối nghịch giữa đức tin và tôn giáo trong các khoa thần học về thế tụchóa nhắm đến việc giúp đức tin -cách thầm lén- tránh khỏi những phản bác về tôngiáo của thời hiện đại. Khi vội vã phán quyết rằng con người hiện đại đã trởthành hoàn toàn phi-tôn-giáo (a-religieux), những khoa thần học này đã khiếncho lương tâm các Giáo Hội được yên ổn trước những thất bại Phúc Âm hóa tạiphương Tây. Tuy nhiên, như chúng tôi đã nhấn mạnh trước đây, con người hiện đạikhông tỏ ra là phi-tôn-giáo, là đã đánh mất cảm thức về “cái thiêng”. Vả lại,các khoa thần học về thế tục hóa bị các khoa thần học phóng khoáng phê bình:khi bảo lãnh cho các xã hội phóng khoáng, với danh nghĩa là tách biệt “cáicông” khỏi “cái tư”, các khoa thần học về thế tục hóa đã giới hạn đức tin vào mộtphận vụ thuộc lãnh vực tâm lý, chẳng tác động gì đến một xã hội kỹ nghệ hóa mấttính người.

Ngược lại với cáckhoa thần học đánh giá tích cực hiện tượng thế tục hóa tổng quát, các trào lưu-sinh sôi nảy nở trong tất cả các tôn giáo truyền thống và các tín phái Kitô từnăm 1970- đã tái khẳng định sự dị trị (hétéronomie) của thế giới và cũng chốnglại sự tự trị (autonomie) của cá nhân. Chúng ta hãy nghĩ đến những hiện tượngkhác, đó là những giáo phái, nhóm tân-toàn-thống (néo-fondamentalisme), và nhómtoàn-thủ (intégrisme).

Giữa hai thái cực củaviệc (1) hoàn toàn tán thành việc thế tục hóa khách quan và chủ quan, nhân danhmột đức tin Kitô được tái giải thích, và (2) việc bác bỏ không dè dặt sự tự trịcủa chủ thể và sự tự trị của xã hội chính trị, nhân danh một đức tin Kitô bảothủ, thì có một lối đi trung dung cho thần học. Lối đi này cốt ở việc nhìn nhậnnhững gì là tiến bộ trong sự tiến triển hiện đại ở phương Tây, kể cả sự kiện thếtục hóa, nhưng cũng phân định ở đó những nguy hiểm và những cái xấu, dưới ánhsáng Lời Chúa. Đó hiển nhiên là đường hướng của những lời dạy của Huấn quyềntrong Giáo Hội Công giáo.

Tại Công ĐồngVaticanô II, Giáo Hội Công giáo đã phân biệt quan điểm có thể chấp nhận vớiquan điểm không thể chấp nhận về sự tự trị của các thực tại trần thế (Gaudium et spes 36). Giáo Hội đã khẳng địnhtự do tôn giáo là quyền căn bản của con người, mà không làm tổn hại đến giáo lýtruyền thống (Dignitatis humanae 1).Giáo Hội và Nhà Nước độc lập với nhau nhưng lại cùng góp phần vào việc thăng tiếncông ích (Gaudium et spes 76). Bản tườngtrình chung cục của Thượng Hội Đồng Giám Mục Ngoại Thường năm 1985 phân biệt giữa“sự kiện thế tục hóa hiểu cho đúng” (sécularisation bien entendue) với “chủtrương thế tục hóa” (“sécularisme”), tức một cái nhìn tự lập – về con người vàthế giới; cái nhìn này bỏ qua, không màng đến, thậm chí chối bỏ huyền nhiệm. Bảntường trình hài lòng cho thấy những “dấu chỉ của một cơn đói khát mong mỏi thếgiới siêu việt và thế giới của Thiên Chúa”.

Rất gần đây, ĐứcBênêđictô XVI đã đào sâu ý nghĩa của sự kiện thế tục hóa dưới cái nhìn đức tintrong cuốn Đức Giêsu Thành Nagiarét(2007). Ta thấy trong tác phẩm này, không phải một giáo huấn của Huấn quyền,nhưng là kết quả suy tư của một thần học gia Công giáo người Đức trở thành Giáohoàng, và thuộc về một thế hệ thần học gia bị khuấy động bởi các vấn đề thế tụchóa khác nhau mà chúng ta vừa đề cập. Đức Bênêđictô XVI dĩ nhiên đã chọn lậptrường trung dung, cũng là lập trường của Huấn quyền Công giáo ít ra từ Công đồngVaticanô II, vượt lên trên chủ trương thế tục hóa (sécularisme) cũng như pháitoàn-thủ (intégrisme). Điều độc đáo nhất nơi ngài là cách ngài đặt hai thái độnày đối lập với nhau, cách nghiêm khắc như nhau.

Đức Bênêđictô XVI tốgiác cách thẳng thắn những mộng tưởng phục hưng bảo thủ cực đoan: “Đế quốc Kitôgiáo đã tìm cách biến đức tin trở thành động lực chính trị cho sự thống nhất đếquốc. Vương quốc Đức Kitô lúc bấy giờ mang hình dạng một vương quốc chính trị vớivinh quang của nó. Sự yếu kém đức tin, sự yếu hèn trần thế của Đức Kitô cần đượcquyền lực chính trị và quân sự nâng đỡ. Qua bao nhiêu thế kỷ, cám dỗ -muốn đứctin được quyền lực bảo đảm- không ngừng xuất hiện, dưới nhiều hình thức; nhưngrồi, chính đức tin lại gặp nguy cơ chết ngạt trong vòng tay quyền lực. Cuộc chiếnđấu cho Hội Thánh được tự do (ta gọi là cuộc chiến, vì vương quốc của Đức Giêsukhông thể bị đồng hóa với bất cứ cơ cấu chính trị nào) phải được tiến hànhtrong mọi thời đại. Việc lẫn lộn đức tin với quyền lực chính trị luôn phải trảgiá: đức tin chỉ phục vụ cho quyền lực và phải khuất phục trước những tiêu chuẩncủa chính trị”.

Thế nhưng ĐứcBênêđictô XVI lại không liên minh với chủ trương thế tục hóa; trái lại, ngài tốgiác ở đó một chủ nghĩa thiên sai cũng đánh lừa con người ta như việc lẫn lộn đứctin với quyền lực chính trị: “Tên cám dỗ không quá thô lỗ trực tiếp đề nghịchúng ta thờ lạy ma quỷ. Nó chỉ đề nghị chúng ta quyết định cho điều hợp lý,cho sự ưu tiên của một thế giới được tổ chức và quy hoạch, trong đó Thiên Chúacó thể có một vị trí, với tính cách là vấn đề riêng tư, nhưng không có quyềnxen vào các vấn đề chính yếu của chúng ta. Soloviev đã viết một cuốn sách vềtên Phản Kitô, Con Đường Mở Rộng Đến TựDo Và Thịnh Vượng Của Thế Giới (Le Chemin public vers la paix et le bien-êtredu monde); cuốn sách này có thể nói đã trở thành cuốn Kinh Thánh mới mà nộidung thực thụ là thờ phượng sự thỏa mãn bản thân và sự quy hoạch hợp lý”.

Trong Tông huấn Evangelii gaudium (tháng 11/2013), ĐứcThánh Cha Phanxicô có đề cập đến đề tài thế tục hóa (đoạn 64) nhưng đó không phảilà điểm chính yếu của Tông huấn. Tông huấn không còn tập trung vào các vấn đề củaChâu Âu và Bắc Mỹ, nhưng tỉ mỉ nhắc đến, chẳng hạn, sức sống và những nguồn tàilực của lòng đạo đức bình dân ở Châu Mỹ La-tinh, Phi Châu hoặc Á Châu. Hơn là sựkiện thế tục hóa nói chung, đúng hơn, trongxã hội, chính sự sùng bái lợi nhuận kinh tế gây thiệt hại cho con người vàcho kẻ nghèo mới bị tố giác (số 52 đến 60); và trong Giáo Hội, cái cần phải tố giác là một dạng “tính thế tụcthiêng liêng” (mondanité spirituelle) (số 93 đến 97). Lối nói “tính thế tụcthiêng liêng” – mượn từ nhà thần học người Pháp Henri de Lubac – cho thấy sựtìm kiếm vinh quang loài người và sự thỏa mãn bản thân có thể giấu mặt đàng sau“sự quan tâm phô trương đối với phụng vụ, giáo lý hay uy tín của Hội Thánh <…>Xin Chúa cứu chúng ta khỏi một Hội Thánh thế tục với những cạm bẫy của hoạt độngthiêng liêng và mục vụ bề ngoài!”.

Xem thêm: Tra Từ Time Sheet Là Gì ? Định Nghĩa Và Giải Thích Ý Nghĩa Phân Hệ Chấm Công (Timesheets)

Thư mục: Có thể tìm một thư mục chi tiết ở Cl. GEFFRÉ, “Sécularisation”, Dictionnaire De Spiritualité, Paris,Beauchesne, 1990, tome XIV, p. 507-508. Trong hai mươi năm vừa qua, có thêm nhữngcông trình nghiên cứu về các triết gia người Đức về vấn đề thế tục hóa:Schmitt, Löwith, Voegelin. Để có một suy tư mới hơn thuộc lãnh vực nhân học, cóthể đọc: Olivier ROY, La sainte ignorance.Le temps de la religion sans culture, Paris, Seuil, 2008, và thuộc triết học:Charles TAYLOR, L’âge séculier, Seuil,2011.

WHĐ (26.02.2021)Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 95 (Tháng 07 & 08 năm 2016)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *