Bàng quang bình thường được lót bởi biểu mô tế bào chuyển tiếp có độ dày 3- 7 lớp tế bào. Lớp tế bào đáy nằm trên màng đáy và được bao phủ bởi nhiều lớp tế bào trung gian, lớp tế bào nông nhất ở bề mặt là những tế bào hình dù phẳng. Màng đáy bao gồm những cơ niêm không liên tục và rất giàu lympho. Lớp cơ nằm bên dưới lớp màng đáy.
Đang xem: Ung thư biểu mô Đường bài xuất ( tcc là gì, tcc nghĩa là gì
Tăng sản không điển hình: gia tăng số lượng các lớp của tế bào và nhân không điển hình kèm theo sự mất trật tự các lớp của tế bào dù. Ðây là sự biến đổi tiền ung thư.
Inverted papilloma: là sang thương lành tính xảy ra do đáp ứng với tình trạng nhiễm trùng hoặc tình trạng chấn thương. Ðây là sang thương tăng sinh dưới niêm mạc xảy ra ở vùng tam giác và cổ bàng quang được che phủ bởi niệu mạc bình thường.
Cystitis systica: cơ bản là những sang thương Von Brunns nests có kèm theo một số thay đổi mô học. Trung tâm của tiểu đảo chứa đầy một chất dịch và nhìn có vẻ giống dạng nang hơn là dạng tuyến
Von Brunns nests: là những tiểu đảo chứa niệu mạc có vẻ lành tính nằm trong lớp dưới niêm, là hậu quả của sự tăng sinh nhô vào bên trong của lớp tế bào đáy. Ðây là một biến đổi mô học bình thường.
Cystitis glandularis: cơ bản là những sang thương Von Brunns nests có thêm sự thay đổi mô học. Biểu mô tế bào chuyển tiếp chuyển sản tuyến và các tế bào có dạng hình trụ kèm theo tương bào chứa chất nhầy. Cystitis glandularis có thể biểu hiện dưới dạng papilloma và thường đi kèm với bệnh lipomatosis vùng chậu và có thể gây ra adeno- carcinoma
Nephrogenic adenoma: là sang thương lành tính xảy ra do đáp ứng với tình trạng nhiễm trùng hoặc tình trạng chấn thương. Về đại thể có dạng papilloma. Mô học có cấu trúc giống ống thu thập của thận.
Squamous metaplasia: sự tăng sinh và dị sản lành tính, niệu mạc bình thường được thay thế bởi biểu mô lát không sừng hoá. Ðại thể là những mảng màu trắng ở vùng tam giác thường gặp ở phụ nữ.
TCC được chia thành: bướu nông (không xâm lấn) và bướu xâm lấn. Bướu không xâm lấn có dạng u nhú hoặc dạng phẳng và không xâm lấn vào lớp cơ. Bướu dạng phẳng là carcinoma in situ (CIS), đại thể là những mảng màu đỏ bao gồm những TCC có độ biệt hoá cao. Bướu xâm lấn thường là bướu đặc.
Ðộ biệt hóa dựa vào mức độ loạn sản của tế bào. Thông thường chia thành: biệt hóa tốt, biệt hóa trung bình và biệt hóa kém tương ứng với grade thấp, trung bình và cao. Ða số CIS là biệt hóa tốt.
Papilloma là một bướu có độ biệt hóa bằng không. Ðây là một sang thương dạng nhú, có một lỏi sợi mạch máu được che phủ bởi niệu mạc bình thường. TCC biệt hóa cao là một loại u nhú có niệu mạc dày lên, dị sản nhẹ và đa dạng.
Các bất thường (thêm, mất hoặc tái sắp xếp) của các nhiễm sắc thể 3,5,7,9,11. Trisomy nhiễm sắc thể 7 và mất toàn bộ hoặc mất một phần nhiễm sắc thể 9 và 11p thường gặp nhất.
Triệu chứng thường gặp nhất là tiểu máu không đau, đặc biệt là trong trường hợp bướu không xâm lấn. Các triệu chứng kích thích (tiểu gấp, tiểu nhiều lần, tiểu khó) gợi ý CIS hoặc bướu xâm lấn. Các triệu chứng khác bao gồm: đau hông lưng do tắc niệu quản, khối u đáy chậu hoặc các triệu chứng do di căn.
Ðộ biệt hoá của bướu, giai đoạn của bướu, sự hiện diện của CIS là những yếu tố tiên lượng quan trọng nhất.
Xem thêm: Somatostatin Là Gì – Hormones Tuyến Yên Somatostatin
CIS có thể không có triệu chứng hoặc có triệu chứng kích thích (tiểu gấp, tiểu nhiều lần, tiểu đau). Có thể nhầm lẫn với bướu tiền liệt tuyến, nhiễm trùng, viêm bàng quang kẽ hoặc bàng quang thần kinh.
CIS thường xảy ra ở nam giới, có thể xảy ra đơn độc hoặc đi kèm papilloma không xâm lấn, TCC không xâm lấn.
CIS có triệu chứng là do sang thương lan toả khắp niệu mạc. Khi đi kèm với các bướu khác, CIS thường đa ổ và bao quanh đáy của một u nhú có độ biệt hóa cao. Nếu CIS đi kèm với papilloma thì dễ tái phát và dễ xâm lấn.
Tế bào học nước tiểu hầu như dương tính trong tất cả các trường hợp CIS vì tế bào bướu rất dễ tróc ra khỏi màng đáy.
Phải làm tế bào học nước tiểu, soi bàng quang và sinh thiết hoặc cắt bướu. Ngoài ra còn phải có hình ảnh học đường tiết niệu trên. Ở một số bệnh nhân cần phải sinh thiết niệu đạo tiền liệt tuyến.
Ðiều này còn đang bàn cãi. Một số tác giả cho rằng việc phát hiện ra loạn sản hoặc CIS khu trú có ý nghĩa tiên lượng và ảnh hưởng đến quyết định điều trị. Tuy nhiên có nhiều nghiên cứu cho rằng sinh thiết ngẫu nhiên không ích lợi mà còn có bất lợi là gieo rắc bướu vào những nơi sinh thiết.
Phải đánh giá chức năng thận, tìm sự bất thường của chủ mô thận và phải thấy được niệu mạc của đường tiết niệu trên. Ðiều này có thể đạt được tốt nhất bằng UIV, siêu âm thận và UPR.
CT bụng và chậu không được chỉ định trong trường hợp bướu không xâm lấn vì rất ít khi bướu xâm lấn ra khỏi bàng quang. MRI thì không có khả năng phân biệt được độ sâu của sự xâm lấn bướu. Ở những bệnh nhân có bướu xâm lấn CT scan giúp xác định mức độ xâm lấn các cơ quan lân cận và xâm lấn hạch. CT âm tính vẫn không loại trừ được di căn hạch vi thể.
Thường là không. Nếu có hiện diện thận ứ nước, thường do tắc nghẽn niệu quản nội thành. Ðây là dấu hiệu của TCC xâm lấn.
Bướu Ta độ biệt hóa tốt (độ 1 đến 2) sẽ theo dõi định kỳ bằng soi bọng đái (và cắt đốt bướu bổ sung nếu cần). Nếu bướu xảy ra nhiều chỗ, tái phát nhiều lần hoặc nếu Ta grade 3/ T1thì cần phải kết hợp hoá trị miễn dịch tại chỗ trong bọng đái.
Xem thêm: Bí Quyết Kiểm Soát Chỉ Số Triglyceride Là Gì, Bí Quyết Kiểm Soát Chỉ Số Triglyceride
Theo dõi bằng soi bọng đái mỗi 3 tháng trong 2 năm đầu, sau đó mỗi 6 tháng trong 1-2 năm tiếp theo, kế tiếp theo dõi mỗi năm. Gần đây một số nghiên cứu cho rằng bướu có độ biệt hoá tốt có thể theo dõi bằng tế bào học nước tiểu để giảm bớt số lần soi bọng đái.
Phản hồi Gửi cho bạn bè In ra giấy |
Các tin khác: