Trước thêm Đại hội XIII của Đảng, một số người, trong số đó có cả một vài cán bộ, đảng viên cho rằng, chủ nghĩa Mác – Lênin là tư tưởng ngoại lai, đã lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, vậy nên Đại hội XIII cần xác định chỉ lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng. Để có cái nhìn đúng đắn, sự đánh giá hợp lý về quan điểm sai lầm đó, xin được trao đổi để làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở để khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác – Lênin không thể lỗi thời, và việc Đảng ta xác định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng là hoàn toàn đúng đắn.
Đang xem: Chủ nghĩa mác lênin là gì
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết, một hệ thống lý luận khoa học mở, được phát triển không ngừng và do đó nó không bị hạn định bởi biên giới quốc gia, dân tộc, không thể bị lỗi thời!
Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời từ giữa thế kỷ XIX ở trong lòng châu Âu, nơi mà chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh nhất, bộc lộ rõ bản chất giai cấp và những mâu thuẫn gay gắt trong lòng của nó, đồng thời cũng kéo theo tình trạng bóc lột người lao động làm thuê, đẩy họ vào tình cảnh khốn cùng. Trong hoàn cảnh ấy, sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin không ngoài ảnh hưởng của một mục tiêu nhân văn cao cả là lý giải nguyên nhân dẫn đến tình trạng người bóc lột người để tìm ra con đường, giải pháp nhằm giải phóng con người mà trước hết là giải phóng những người vô sản làm thuê ra khỏi cuộc sống khốn khổ và thân phận thấp hèn trong xã hội đương thời. Cái mục tiêu nhân văn ấy tưởng đã là một mơ ước từ ngàn đời của nhân loại về giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức, bất công, mang lại cuộc sống tự do, công bằng, ấm no, hạnh phúc cho mỗi người và mọi người. Cũng cần phải nói rằng, C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng học thuyết của mình trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tiếp thu có phê phán toàn bộ những giá trị tinh hoa của quá trình phát triển tư tưởng của nhân loại, đặc biệt là kinh tế – chính trị cổ điển Anh, triết học cổ điển Đức và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Những học thuyết về giá trị lao động của Adam Smít, Davit Ricacđô, phương pháp biện chứng của G. Ph. Hêghen, chủ nghĩa duy vật nhân bản của L. Phoi-ơ-bắc, những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội không tưởng của Hăng-ri-đơ Cơ-lô-đơ Xanh Xi-mông, Rô-be Ô-oen, Etienne Cabet, Sác-lơ Phu-ri-ê đã đóng góp những cơ sở nhận thức quan trọng giúp cho C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng học thuyết khoa học của mình. Và như vậy, sự ra đời của Chủ nghĩa Mác là một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, với thành tựu vĩ đại lần đầu tiên phát hiện tính quy luật trong phát triển của lịch sử loài người, là cột mốc đánh dấu bước ngoặt căn bản từ tự phát sang tự giác của phong rào công nhân quốc tế. Nó trang bị nhận thức lý luận cho giai cấp vô sản về vai trò và xứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình; làm cho chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học; trang bị cho giai cấp công nhân cương lĩnh chính trị cho cuộc đấu tranh lật đổ sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi mà chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin là người tiếp tục phát triển những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen. Ông có nhiều đóng góp vào phát triển các tư tưởng triết học, kinh tế – chính trị của C. Mác và Ph. Ăngghen, phát triển tư tưởng về khả năng cách mạng vô sản thắng lợi ở một nước tư bản có trình độ phát triển chưa cao. Đặc biệt, V.I. Lênin đã phát triển tư tưởng và trực tiếp bắt tay vào xây dựng một chính đảng mác xít kiểu mới; tổ chức cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi ở nước Nga và vận dụng một cách sáng tạo học thuyết của C. Mác, Ph. Ăngghen để phân tích, đánh giá tình hình, đề ra các chính sách giải quyết hàng loạt vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga và Liên bang Xô viết. Sau V.I. Lênin còn có nhiều nhà cách mạng, học giả tiếp tục phát triển học thuyết khoa học của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin, vận dụng sáng tạo học thuyết đó vào điều kiện lịch sử cụ thể để lãnh đạo cách mạng, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, một đại biểu tiêu biểu trong số đó là Hồ Chí Minh.
Nói đến chủ nghĩa Mác – Lênin là nói đến sự thống nhất của ba bộ phận cấu thành của tòa kiến trúc vĩ đại của học thuyết khoa học do C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin xây dựng và phát triển. Đó là triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kinh tế chính trị marxit và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Với tính chất là một học thuyết, một hệ thống lý luận khoa học, những người khai sinh ra chủ nghĩa Mác – Lênin chưa bao giờ muốn và chưa có bất cứ một mệnh đề phán đoán nào để quy các luận điểm trong học thuyết của mình về cách mạng xã hội hay về xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai thành những tín điều siêu hình, cứng nhắc. Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph. Ăngghen đã trả lời hàng loạt vấn đề lý luận liên quan trực tiếp đến chủ nghĩa xã hội khoa học như: thế nào là giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản; quan hệ giữa giai cấp công nhân với Đảng Cộng sản; hiểu thế nào là xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; mối quan hệ ra sao giữa giai cấp công nhân, dân tộc và quốc tế; các giải pháp cần thiết để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa,… Chính Ph. Ăngghen là người rất khách quan, khoa học khi luận giải rất tường minh chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, đồng thời yêu cầu những người cộng sản rằng, “…chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học mà ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”.
Trong rất nhiều tác phẩm, C. Mác và Ph. Ăngghen đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức, đánh giá, tổng kết thực tiễn để thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận, nhất là lý luận về con đường hiện thực hóa chủ nghĩa xã họi, chủ nghĩa cộng sản. Trong Lời đề tựa cho lần xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào năm 1872, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết rằng: “… chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II”<1>. Quan điểm lịch sử – cụ thể và quan điểm phát triển cũng luôn luôn được V.I. Lênin quán triệt vận dụng trong nhận thức thực tiễn, giải quyết mối quan hệ gắn bó giữa lý luận với thực tiễn. Chính sách Kinh tế mới chính là một dẫn chứng thực tế sáng rõ về quan điểm đó. Chính V.I. Lênin đã có một định nghĩa đầy tính thực tiễn về chủ nghĩa xã hội mà lâu nay đôi khi những người hậu thế đã bỏ quên hoặc bảo thủ với những định kiến mà không nhìn nhận một cách đúng đắn và nghiêm túc. Người nói: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt nhất của nước ngoài: Chính quyền Xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + = ∑ = chủ nghĩa xã hội”<2>. Nhận định của V.I. Lênin từ gần 100 năm trước vẫn còn nguyên giá trị phương pháp luận đối với chúng ta hiện nay, mà hơn thế nữa, là dự báo cho tính chất khoa học và bền vững của Chủ nghĩa Mác – Lênin ngay cả trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
2. Chủ nghĩa Mác – Lênin không thể lỗi thời bởi những giá trị bền vững không thể phủ nhận của nó!
Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời từ giữa thế kỷ XIX và được tiếp tục phát triển, trở thành một học thuyết có ảnh hưởng lớn nhất trong trong toàn bộ lịch sử khoa học của nhân loại. Sau gần 180 năm phát triển, dẫn dắt cả một hệ thống các quốc gia, dân tộc với hàng tỷ người dân hiện thực hóa mô hình xã hội mới, mang lại những thành tựu vĩ đại, đánh dấu một thời đại cách mạng chưa từng có trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định những giá trị bền vững không thể phủ nhận. Đó là:
(1) Phương pháp biện chứng duy vật: Phương pháp biện chứng duy vật Mác – Lênin là sự kết tinh toàn bộ những thành tựu tinh hoa của lịch sử phát triển tư tưởng duy vật của nhân loại. Nó cũng được bổ sung, làm phong phú thêm và minh chứng bởi những thành tựu khoa học lớn của thời đại C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin sống, cũng như nhiều thành tựu khoa học của thời đại ngày nay. Phương pháp biện chứng Mác – Lênin xuất phát từ những nguyên lý, quy luật và những mối quan hệ cơ bản của tự nhiên và xã hội. Vì thế, một khi những quy luật đó còn còn phản ánh đúng bản chất của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người thì phương pháp biện chứng duy vật còn có giá trị, còn là công cụ nhận thức của con người và không thể lỗi thời. Ví dụ, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho rằng, toàn bộ thế giới thống nhất trong tính vật chất và cho dù các sự vật, hiện tượng có đa dạng, phong phú, phức tạp đến đâu thì chúng cũng chỉ là những dạng, bộ phận của thế giới vật chất duy nhất, có những mối liên hệ chặt chẽ lẫn nhau. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, người ta rút ra quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể trong nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Hoặc V.I. Lênin đã phát triển lý luận nhận thức và chỉ ra rằng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”. Đây chính là quy luật về tư duy của con ngườitrong quá trình nhận thức thế giới. Nó chỉ ra rằng, chính thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình nhận thức của con người về thế giới xung quanh mình. Đến lượt nó, cũng chính thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, tiêu chuẩn đánh giá kết quả nhận thức. Cũng như phép hùng biện ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại, thuyết tiến hóa của Sác-lơ Đác-uyn từ giữa thế kỷ XIX, v.v. đến nay vẫn có giá trị, vẫn không lỗi thời, phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn có giá trị như những bậc đá không thể thay thế, giúp con người không phân biệt hệ tư tưởng, bước lên con đường đúng đắn trong nhận thức, mở mang hiểu biết và trong hoạt động thực tiễn hằng ngày.
(2) Quan niệm duy vật về lịch sử: Lần đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại, C. Mác đã phát hiện ra tính quy luật của sự phát triển xã hội loài người, điều mà V.I. Lênin đã nhận xét rằng, đó là “thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Quan niệm duy vật về lịch sử cho thấy lịch sử xã hội loài người vận động trên cơ sở những động cơ vật chất, nhất là là động cơ lợi ích kinh tế. Quan niệm duy vật về lịch sử cũng xuất phát từ trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất xã hội để lý giải về đời sống tinh thần, những tư tưởng, văn hóa, điều kiện xã hội của quần chúng nhân dân và vai trò của họ trong lịch sử. Hơn thế nữa, quan niệm duy vật về lịch sử xem xét xã hội một cách toàn diện, chỉnh thể, trên nền của sự phát sinh, phát triển và suy tàn của các hình thái kinh tế – xã hội. Trong khi khẳng định vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, quan niệm duy vật về lịch sử cũng nhấn mạnh vai trò tích cực, sự tác động trở lại của đời sống tinh thần đối với đời sống vật chất, của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Mặc dù con người không thể tùy tiện thay đổi hay xóa bỏ các quy luật của xã hội, nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người có thể tác động để các quy luật xã hội diễn ra nhanh hơn hay chậm đi. Nói chung, quan niệm duy vật về lịch sử là cơ sở phương pháp luận giúp con người nhận thức xã hội, thực tiễn một cách đúng đắn và còn nguyên giá trị, không thể lỗi thời cho dù trong điều kiện của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra.
(3) Lý luận về hình thái kinh tế – xã hội: Trên cơ sở nghiên cứu tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng, sự phát triển của xã hội loài người rất phong phú, đa dạng, nhưng đó là sự phát triển có quy luật. Những yếu tố cốt lõi quy định tiến trình phát triển của xã hội chính là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất,quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng- những yếu tố căn bản tạo nên và quy định tính chất, trình độ của mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Và toàn bộ dòng chảy lịch sử của nhân loại là quá trình lịch sử – tự nhiên với sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp lên cao (cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản). Nguyên nhân khách quan, nội tại dẫn tới sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế – xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cho dù sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới đều rất phong phú với những biểu hiện sinh động về đời sống vật chất, tinh thần, tuy nhiên tất cả vẫn phải trải qua những nấc thang, những giai đoạn tương đồng nhất định của hình thái kinh tế – xã hội. Đó có thể là sự tương đồng về tuần tự từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế – xã hội. Cũng có thể là sự tương đồng về sự bỏ qua một hình thái kinh tế – xã hội nào đó nếu điều kiện cho phép. Chính điều này đã dẫn tới tình trạng phát triển không đồng đều của các dân tộc, quốc gia trên thế giới. Sự phát triển không đồng đềuthể hiện ở chỗ, trong cùng một thời đại, những các quốc gia dân tộc không ở cùng một hình thái kinh tế – xã hội như nhau, hoặc cùng một hình thái kinh tế – xã hội như nhau nhưng ở mỗi quốc gia, dân tộc lại có những biểu hiện, đặc điểm khác nhau. Mặt khác, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng chỉ ra rằng, con người không thể chủ quan, tùy tiện xóa bỏ quy luật khách quan của lịch sử, nhưng con người thông qua động cơ lợi ích, ước muốn, có thể tác động, thúc đẩy quy luật đó diễn ra nhanh hay chậm. Cùng với quan niệm duy vật về lịch sử, lý luận về hình thái kinh tế – xã hội tạo thành cơ sở cho phương pháp luận khoa học trong nhận thức thực tiễn xã hội, giúp cho con người, các lực lượng chính trị – xã hội tiến bộ có thái độ, hành vi hợp lý trong việc thúc đẩy sự phát triển tích cực của xã hội.
(4) Lý luận về giá trị thặng dư: Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư, trên cơ sở đó, ông đã vén lên bức màn bí mật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nguyên nhân và cơ chế vận hành của sự bóc lột đối với công nhân, người làm thuê. Cho đến nay, chưa có học giả nào có thể đưa ra một lý luận có thể khả dĩ bác bỏ được lý luận về giá trị thặng dư của C. Mác. Cùng với lý luận về giá trị thặng dư, lý luận về sở hữu, về khả năng xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, lý luận về sự ra đời tất yếu của sở hữu xã hội là những giá trị bền vững của kinh tế – chính trị Mác – Lênin.
Ngày nay, chính sự phát triển vũ bão của khoa học – công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã không làm cho lý luận về giá trị thặng dư, về mối quan hệ sở hữu, trở nên lỗi thời, mà ngược lại, đã và đang minh chứng cho tính đúng đắn của những lý luận đó.
(5) Lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học: Khi C. Mác và Ph. Ăngghen nói về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì đó mới chỉ là dự báo trên những dường nét cơ bản, đặc trưng nhất. Theo họ, chủ nghĩa xã hội tất yếu sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản dựa trên tính quy luật của sự phát triển thay thế các hình thái kinh tế – xã hội, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là do tất yếu kinh tế quy định và đều tất yếu như nhau. Về sau, V.I. Lênin là người trực tiếp vận dụng học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen để tiến hành cách mạng đánh đổi chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga và Liên Xô.
C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin là những thiên tài, nhưng họ cũng bị quy định bởi thời gian, không thể suy nghĩ và giải đáp mọi vấn đề đặt ra trong tương lai. Nói như cách hiểu của Ph. Ăngghen, việc dự báo càng sâu, càng chi tiết về tương lai cũng chính là càng rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Bởi thế, rất có thể một số nhận định, dự báo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin có thể bị vượt qua hoặc không còn phù hợp nữa sau hàng trăm năm vận động, phát triển của loài người, tuy nhiên trong sự vận động tổng thể theo quy luật của xã hội loài người, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn chưa thể bị thời gian vượt qua.
Nói tóm lại, dù được hiểu theo nghĩa nào, chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là học thuyết về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột, mưu cầu tự do, hạnh phúc; quy luật về cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng, phát triển đi tới chủ nghĩa cộng sản. Với tính chất là một học thuyết khoa học, chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ khẳng định những giá trị bền vững hiển nhiên, không thể phủ nhận, mà còn tiếp tục là cơ sở phương pháp luận cho nhận thức tự nhiên, xã hội và tư duy của con người;cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh của con người để ngày càng thích ứng hài hòa với môi trường thiên nhiên, cho cuộc đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, vì sự tiến bộ và hạnh phúc.
Xem thêm: Những Điều Nhất Định Phải Biết Khi Hạch Toán Chi Phí Sản Xuất Chung Là Gì ?
3. Chủ nghĩa xã hội không chỉ là sự vận động tất yếu theo quy luật, mà còn là mơ ước ngàn đời của nhân dân các dân tộc trên toàn thế giới về một xã hội phồn vinh, hạnh phúc, vì thế nó không bao giờ lỗi thời!
Dựa trên quy luật về lịch sử vận động, phát triển của xã hội loài người, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra và khẳng định tất yếu loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội – giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, qua một thời kỳ quá độ. Như vậy, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin. Và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội cũng có nghĩa là kết thúc của chủ nghĩa tư bản. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến việc các học giả tư sản và các thể lực chính trị của chủ nghĩa tư bản căm thù và điên cuồng chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin, xuyên tạc, phê phán học thuyết về chủ nghĩa xã hội, chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới. Mục tiêu của sự chống phá, phê phán đó rất rõ ràng, đó là bảo vệ sự tồn tại của chế độ tư bản chủ nghĩa bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Tiếc thay, một số ít người trong hàng ngũ của Đảng cộng sản hoặc sinh sống ở các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng hùa theo những luận điệu, tiếp tay cho những âm mưu đó, xuyên tạc, phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận và phê phán đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vậy đâu là cơ sở để khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội là mục tiêu đúng đắn, tốt đẹp và không thể lỗi thời?
Trước hết, chủ nghĩa xã hội là tất yếu lịch sử, nghĩa là đó là con đường tất yếu theo quy luật mà con người sẽ đi tới. C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát triển chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học khi nhìn nhận nó từ quy luật vận động của lịch sử, như sự vận động tất yếu từ những cơ sở xã hội, những yếu tố kinh tế, vật chất vốn đã được hình thành ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Căn nguyên kinh tế – xã hội của sự vận động, phát triển tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội chính là sự phát triển và quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, làm thay đổi tình trạng của hạ tầng cơ sở xã hội tư bản chủ nghĩa. Sự thay đổi tình trạng của hạ tầng cơ sở xã hội tư bản chủ nghĩa đến mức độ cao tất yếu dẫn đến sự thay đổi của thượng tầng kiến trúc của xã hội tư bản chủ nghĩa, tức là thay đổi chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong sự thay đổi ấy, nhà nước với tính chất là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị sẽ bị diệt vong, thay vào đó là nhà nước quản trị, đại diện cho các công dân bình đẳng để quản trị, duy trì trật tự xã hội. Sự thay đổi ấy đồng nghĩa với sự giải phóng con ngườimột cách toàn diện, thủ tiêu mọi sự thù địch giai cấp, nhất là thù địch giữa giai cấp vô sản và tư sản. Nói như Ph. Ăngghen, “Theo nguyên tắc của nó, thì chủ nghĩa cộng sản vượt lên trên sự thù địch giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản; nó chỉ thừa nhận ý nghĩa lịch sử của sự thù địch đối với hiện tại, nhưng lại phủ nhận tính tất yếu của sự thù địch ấy trong tương lai; chủ nghĩa cộng sản chính là nhằm mục đích thủ tiêu sự thù địch ấy”<3>.
Thứ hai, mục đích của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ người bóc lột người, xây dựng một xã hội công bằng, phồn vinh, hạnh phúc, mang lại sự phát triển tự do và cuộc sống hạnh phúc cho con người, hiện thực hóa mơ ước ngàn đời của người dân toàn thế giới. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và những người cộng sản chân chính đều khẳng định mục đích ấy, hành động, phấn đấu và đấu tranh vì mục đích ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cả đời mình, vượt qua bao tù đày, gian khổ, thử thách chỉ vì mục đích ấy, một mục đích cao cả, cứu nước, cứu dân. Và để đạt được mục đích độc lập cho dân tộc, phồn vinh cho đất nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, theo Người chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, “có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày giàu mạnh thêm”<4>.
Một số người cho rằng, mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa không cụ thể, quá xa vời. Tất nhiên, xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải là công việc ngày một, ngày hai, mà là cả một sự nghiệp vĩ đại, đòi hỏi có thời gian, lao động, sáng tạo, đòi hỏi sức người, sức của to lớn. Tuy nhiên, không phải vì thế mà người ta không thể không biết được mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là gì. Từ năm 1946, khi Cách mạng Tháng Tám vừa mới thành công, nền độc lập tự chủ của đất nước đang trong thế ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rất rõ ràng, cụ thể mục đích cách mạng là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”<5>. Sau này, Người giải thích: “Chế độ cộng sản là ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang. Trừ những bọn phản động quá sá, thì chắc ai cũng tán thành chế độ cộng sản”<6>. Bằng chính thực tiễn cách mạng hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã giành được độc lập, tự do, đánh đuổi những kẻ thù xâm lược to và hung hãn, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao vị thế dân tộc trên trường quốc tế. Cương lĩnh chính trị của Đảng trong thời kỳ mới chỉ rõ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” cùng các đặc trưng về văn hóa, con người, kinh tế, quan hệ dân tộc, nhà nước, quan hệ chính trị và quan hệ quốc tế, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh, đó là chế độ “do nhân dân làm chủ”, nhằm làm cho “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Những điều đó rất rõ ràng, rất minh bạch, thiết nghĩ cán bộ, đảng viên và mọi người dân đều hiểu được, trừ những người cố tình không hiểu do bị “ô nhiễm” bởi sự tuyên truyền chống phá thù địch.
Thứ ba, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình lao động sáng tạo không mệt mỏi, cuộc đấu tranh gian nan, phức tạp để xây dựng phát triển cơ sở vật chất, không ngừng nâng cao năng xuất lao động, hiệu quả sản xuất. Cùng với quá trình xây dựng, phát triển những cơ sở vật chất là quá trình xây dựng, phát triển con người một cách toàn diện, từ nhận thức, văn hóa, lối sống, ý thức cộng đồng, đến sự hoàn thiện về đạo đức, nhân cách, sức khỏe. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”<7>. Người phân tích, làm rõ hơn tính chất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với tính chất một cuộc cách mạng: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp”<8>.
Một số người nhìn vào sự hơn hẳn về điều kiện vật chất, trình độ phát triển về kinh tế, khoa học – công nghệ và một số lĩnh vực khác của các nước tư bản phát triển đã vội cho rằng, chủ nghĩa tư bản là ưu việt và chê bai về chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Xin nhớ rằng, chủ nghĩa xã hội là một mục tiêu tốt đẹp nhưng không phải tự nhiên trên trời rơi xuống hay do một học thuyết nào mang đến, mà do chính chúng ta phải lao động, sáng tạo để xây dựng nên. Đảng Cộng sản là người định hướng đường lối, định hướng chính sách, lãnh đạo Nhà nước tổ chức lực lượng, những lực lượng thực hiện không là ai khác ngoài nhân dân lao động mọi tầng lớp. Cái thuộc về bản chất ưu việt của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là hạn chế đến mức thấp nhất, tiến tới không có người bóc lột người, tạo điều kiện tốt nhất để người dân được thụ hưởng thành tựu của quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Chúng ta đã phải trải qua hơn 30 năm chiến tranh tàn phá, trải qua thời kỳ bao vây cấm vận nghiệt ngã cùng sự thù địch của những người vốn cùng chiến tuyến. Trên thực tế, chỉ từ năm 1990 sau khi rút quân khỏi Campuchia, kết thúc thời kỳ giúp đỡ nước bạn thoát khỏi nạn diệt chủng, chúng ta mới có điều kiện hòa bình, ổn định thực sự để xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, cải thiện cuộc sống của nhân dân. Trong 30 năm, chúng ta đã nâng GDP bình quân đầu người từ 182 USD lên gần 3.500 USD (theo Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới của IMFcông bố tháng 10-2020), tức là tăng hơn 19 lần; tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 3%; tỷ lệ bảo hiểm y tế toàn dân đã đạt gần 90%. Đời sống người dân ngày càng được cải thiện toàn diện, bảo đảm ổn định trong cả những điều kiện thiên tai, dịch bệnh. Thực trạng và những thành tựu to lớn của đất nước trong 35 năm đổi mới, xây dựng, phát triển và cải thiện đời sống nhân dân là bằng chứng hùng hồn, không ai có thể phủ nhận về tính chất ưu việt của chế độ chính trị, về sự đúng đắn của mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Đúng là không ai có thể phủ nhận một thực tế là các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã có được những thành tựu kinh tế, khoa học – công nghệ kéo theo những cải thiện nhất định về điều kiện sống của người dân. Nhưng đó mới chỉ là cách nhìn thực tại, phiến diện, lệch lạc, không đúng bản chất vấn đề. Trước hết, đó là những nước ít nhất cũng có 60 năm, nhiều hơn là vài trăm năm hòa bình xây dựng, không bị tàn phá bởi chiến tranh. Trong quá trình đó, giai cấp tư sản ở các nước phương Tây đã vơ vét của cải, bóc lột sức của, sức người của nhiều nước thuộc địa và những người lao động chính quốc để làm giàu. Khoảng cách giàu nghèo ở các nước đó ngày càng rộng ra, lớn hơn lên và không bao giờ có thể khỏa lấp. Hơn nữa, trong khi thực hiện một số chính sách tiến bộ ở trong nước, thì họ vẫn sẵn sàng gây chiến tranh, áp đặt quyền lực, khai thác vơ vét tài nguyên của các nước nghèo, bị lệ thuộc để làm giàu cho mình. Những cuộc xung đột vũ trang gần đây ở Irắc, Libia, Siry… có trách nhiệm lớn của các nước phương Tây. Chính một học giả người Libia Terry Eagletonđã nhận xét: “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm”<9>. Từ đó để thấy, câu trả lời thích hợp cho những người còn ảo tưởng về chủ nghĩa tư bản chính là câu châm ngôn của người phương Tây: “miếng pho-mát cho không chỉ có trong bẫy chuột”.
4.Phải chăng chỉ cần duy nhất tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta?
Có thể nói rằng, cả về lý luận và cơ sở thực tiễn đều chỉ ra rằng, đó là tư tưởng sai lầm từ phương pháp tiếp cận vấn đề đến cái nhìn sai lệch, thiếu toàn diện đối với lịch sử và thực tiễn.
Thứ nhất, Cươnglĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”<10>. Vai trò, giá trị và ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam trước đây, cũng như đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời gian tới là vô cùng to lớn. Vai trò, giá trị và ý nghĩa ấy bắt nguồn từ chỗ, Hồ Chí Minh đã “vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lêninvào điều kiện cụ thể của nước ta”, đồng thời “kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”.
Sau nhiều năm bôn ba nhiều nơi trên khắp thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Đó là con đường cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để đưa cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi, Người đã truyền bá những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, vận dụng lý luận về xây dựng đảng kiểu mới V.I. Lênin sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam – lực lượng lãnh đạo cách mạng. Người đã vận dụng lý luận về cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tế Việt Nam, một nước thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu, để tập hợp lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc thành sức mạnh vô địch đánh đổ thực dân xâm lược, phong kiến áp bức, đánh đuổi những đế quốc to, những kẻ xâm phạm bờ cõi non sông, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ hòa bình cho công cuộc xây dựng đất nước và cuộc sống an toàn, hạnh phúc cho nhân dân. Người yêu cầu phải xây dựng chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho đất nước ngày càng giàu mạnh, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp sáng tạo giữa nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn sinh động, lịch sử cụ thể của Việt Nam, là một bộ phận phát triển mới trong một giai đoạn mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, không thể tách rời những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Vì thế, không thể chỉ lấy tư tưởng Hồ Chí Minh mà gạt bỏ chủ nghĩa – Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng ta.
Thứ hai, một số người cho rằng, những biểu hiện bảo thủ, trì trệ trong nhận thức, những sai lầm, hạn chế, khó khăn và ách tắc trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác – Lênin, và do đó không nên coi chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Có thể nói ngay rằng, đó là sự tư biện hết sức vô lý và mâu thuẫn. Trước hết, xây dựng chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nói cách khác, toàn bộ nền tảng khoa học và cơ sở thực tiễn, cũng như logic của học thuyết Mác – Lênin đều hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, giải phóng con người không phân biệt giai cấp, “kể cả các nhà tư bản, khỏi khuôn khổ chật hẹp của những quan hệ hiện có”- cách nói của Ph. Ăngghen, mang lại tự do, hạnh phúc và một xã hội tốt đẹp cho nhân loại. Điều đó được nhận thức như sự vận động của xã hội theo quy luật tất yếu mà con người chỉ có thể tác động, thúc đẩy cho nhanh lên hay chậm đi, mà không thể thay đổi được xu hướng vận động. Vậy mà thừa nhận con đường xã hội chủ nghĩa của cách mạng nước ta nhưng không thừa nhận vai trò nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, khác nào ở trên tầng cao của tòa nhà mà không thừa nhận nền móng của tòa nhà, mong muốn thu hoạch trái cây mà không quan tâm đến gốc rễ của cây.
Mặt khác, nếu có những biểu hiện bảo thủ, trì trệ trong nhận thức, những sai lầm, hạn chế, khó khăn và ách tắc trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa thì đó đâu phải là lỗi của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà chính là lỗi của chúng ta không nhận thức đầy đủ những vấn đề lý luận, bảo thủ với những tín điều và kinh nghiệm cũ, thiếu sáng tạo trong giải pháp, chính sách giải quyết các nhiệm vụ của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Tại Đại hội XII, Đảng đã nghiêm khắc thừa nhận những hạn chế trong đánh giá, dự báo tình hình, trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, trong công tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy, chính quyền, v.v.. Đó chính là nguyên nhân chủ quan “trực tiếp và quyết định” đối với những khuyết điểm, hạn chế trên thực tế như: năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm…
Song cũng cần phải nói rằng, việc có những sai lầm, khuyết điểm, khó khăn, hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước âu cũng là khó tránh khỏi. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi thời gian, nguồn lực to lớn và nhiều điều kiện khác. Chúng ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài suốt 30 năm. Cái khó khăn lớn nhất của chúng ta có lẽ trước hết không phải từ sự thiếu thốn về của cải, vật chất mà đa phần chính ở lối nghĩ, tác phong mang nặng tính chất của nền văn hóa nông nghiệp. Không có kinh nghiệm tiền lệ, không có sự hỗ trợ của phe xã hội chủ nghĩa như trước đây. Nhiều thế lực đang dòm ngó, chống phá. Để có được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những bước đi dũng cảm về nhận thức, sự đổi mới mạnh mẽ về chính sách kinh tế – xã hội. Đó là bước chuyển quyết liệt từ một nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng, sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ một nhà nước theo mô hình chuyên chính vô sản, sang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; từ một đất nước gần như khép kín sang một đất nước mở cửa hội nhập quốc tế toàn diện, ngày càng sâu sắc về kinh tế, chính trị, ngoài giao, văn hóa, v.v.. Từ thực tế ấy cho thấy, Đảng ta đã kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, thức thời và đổi mớimạnh mẽ để đưa đất nước không ngừng tiến lên theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, không thể đổ lỗi cho học thuyết Mác – Lênin về những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Xem thêm: Tính Danh Học Việt Nam : Nghiên Cứu Tên Tự Là Gì, Tính Danh Học Việt Nam : Nghiên Cứu Tên Tự
***
Tóm lại, sự sai lầm của những người cho rằng, “chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời”, xuất phát sự hiểu nhầm về tính chất của học thuyết – chủ nghĩa Mác – Lênin; sự nhìn nhận đánh giá thiên lệch, không đúng về thực tiễn công cuộc xây dựng phát triển của đất nước ta; sự thiếu tỉnh táo và hời hợt trong xem xét, đánh giá về bản chất của chủ nghĩa tư bản; hoặc là bị ảnh hưởng của những luận điệu tuyên truyền chống phá thù địch thâm độc. Điều ấy nhắc nhở chúng ta rằng, những người cộng sản cần phải cảnh giác với nhận thức của mình về chủ nghĩa Mác – Lênin, để tìm hiểu rõ hơn, quán triệt sâu sắc, thường xuyên hơn những nguyên lý khoa học, quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử – cụ thể, tránh bệnh chủ quan, giáo điều khi vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng, phát triển đất nước; đồng thời phải luôn cảnh giác với những quan điểm sai lầm, xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, xa rời lý tưởng cách mạng cao cả mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn, xa rời những thành tựu cách mạng to lớn mà bao đảng viên, cán bộ và đồng bào ta đã ngã xuống, đã cống hiến sức lực và trí tuệ để giành được, vun đắp và giữ gìn cho đất nước, cho dân tộc./.