Con người không thể sống độc lập, mà phải cùng sống, phải có mối liên hệvới nhau để tạo thành xã hội, tồn tại và phát triển như một thực thể của xã hội.Vì thế liên hệ xã hội là nền tảng cuộc sống của con người. Trongcuộc sống xã hội, con người luôn thực hiện các hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu,lợi ích nhất định, dù được tự do thực hiện những hoạt động theo ý muốn cá nhânnhưng con người vẫn phải đặt mình trong các nhóm xã hội hoặc xã hội nói chung,tuân theo những quy tắc, yêu cầu đòi hỏi của những người xung quanh để định hướnghành động của mình. Chính vì thế mà trong xã hộixuất hiện nhu cầu phải có những phương tiện xã hội nhất định để điều chỉnh hànhvi của con người. Từ đó, trong xã hội hình thành và xuất hiện một hệ thống cácchuẩn mực xã hội (social norm, standard). Vậy, chuẩn mực xã hội là gì? Và nó cótác dụng như thế nào đến đời sống xã hội, pháp luật? Để làm rõ hơn vấn đề này,em xin tìm hiểu vấn đề:
“Phân tích khái niệm chuẩn mực xã hội, các đặctrưng cơ bản của chuẩn mực xã hội? Tác dụng của chuẩn mực xã hộiđối với đờisống xã hội và pháp luật?”
Chuẩn mực xã hộilà hệ thống các quy tắc, yêu cầu đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân haynhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạmvi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộcphải thực hiện trong các hành vi xã hội của mỗi con người, nhằm đảm bảo sự ổn định,giữ gìn trật tự, kỉ cương của xã hội(<1>).
Đang xem: Chuẩn mực xã hội là gì, nghĩa của từ chuẩn mực xã hội trong tiếng việt
Thứ nhất,chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, do chínhcác thành viên của xã hội đặt ra nhằm ápđặt cho hành vi xã hội của mỗi người. Điều đó nói lên nguồn gốc xã hội của chuẩnmực xã hội – hình thành từ chính nhu cầu điều tiết điều chỉnh các mối quan hệxã hội đa dạng, phức tạp của đời sống xã hội. Đối với các thành viên xã hội,chuẩn mực xã hội được coi là một giá trị chi phối rộng rãi và được tuân theo mộtcách phổ biến.
Thứ hai,chuẩn mực xã hôi không phải là một cái gì đó chung chung, trừu tượng, khó nhậnbiết, mà nó luôn được xác định một cáchcụ thể, rõ ràng ở mức độ ít hay nhiều sự chính xác về tính chất , mức độ, phạmvi và giới hạn của những khía cạnh, chỉ báo liện quan đến hành vi xã hội của mỗingười(<2>).Bao gồm cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thựchiện.
“Cái có thể” là khái niệm dùng để chỉ khả năng thực hiệnhay không thực hiện một hành vi xã hội của ác nhân con người khi tham gia hoặc ởtrong một tình huống, sự khiện xã hội, quan hệ xã hội nhất định. Chẳng hạn mộtngười phát hiện một người khác có nguy cơ chết đuối nếu không được cứu kịp thời.Trong tình huống này, người phát hiện nhảy xuống hay không nhảy xuống phụ thuộcvào việc anh ta có biết bơi hay không biết bơi cùng với cơ chế thúc đẩy hành vihoàn toàn trông chờ vào sự tự nguyện, tự giác của người đó.
“Cái được phép” dùng để chỉ tất cả những hành vi, hoạt độngmà các cá nhân đã và đang được phép thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, phù hợpvới các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của chuẩn mực xã hội khi họ tham gia vào cácsự kiện xã hội, quan hệ xã hội.
“Cái không được phép” là khái niệmchỉ tát cả những hành vi, hoạt đọn mà chuẩn mực xã hội cấm các cá nhânthực hiện, vì chúng gây ra hoặc có thể gây ra trạng thái nguy hiểm cho xã hội,xâm phạm đến các quan hệ xã hội.Thông thường cái không được phép được nêu vàquy định trong các chuẩn mực pháp luật.
“Cái bắt buộc phải thực hiện” là khái niệm chỉ tất cả các hành vi, hoạt độngmà chuẩn mực xã hội buộc các cá nhân phải thực hiện, dù muốn hay không muốn,khi cá nhân tham gia hay đang ở trong một tình huống, sự kiện xã hội, quan hệxã hội nhất định. Khía cạnh này của hành vi thường được quy định trong pháp luậthình sự.
Thứba, với hệ thong các quy tắc, yêu cầu được đưa ranhằm định hướng và điều chỉnh hành vi xã hội của con người, chuẩn mực xã hội hướngtới thực hiện các chức năng xã hội, giảm bớt tính hỗn tạp trong các ý kiến,quan điểm đánh giá hành vi, gạt đi những bất đồng mâu thuẫn trong các tranh luận,tránh được những xung đột không cần thiết, tạo cơ sở cho quá trình hòa giải,thương lượng giữa các cá nhân để đi đến chấp nhận “mẫu số chung” nhỏ nhất của mọi hành vi. Thực hiện các chức năng đóchuẩn mực xã hội góp phần tạo nên sự đồng thuận, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữgìn và bảo vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội(<3>).
Các chuẩn mực xã hội có nguồn gốc từ thực tiễnđời sống xã hội, được hình thành, nảy sinh từ chính nhu cầu thiết yếu của xã hội.Chúng được tạo thành từ ý chí chung của các thành viên trong xã hội, các nhómxã hội, các giai cấp nhằm củng cố, bảo vệ hay phục vụ nhu cầu, lợi ích của họ.Nội dung của các chuẩn mực xã hội phản ánh nội dung của các quan hệ xã hội, chứađựng các quy tắc, yêu cầu về mặt xã hội đối với hành vi của con người. Chính vìvậy, sự xuất hiện , tồn tại và phát huy vai trò, hiệu lực của các chuẩn mực xãhội trong đời sống xã hội ngày càng được coi là có tính khách quan và mang tínhtất yếu xã hội. Bên cạnh đó, các chuẩn mực xã hội còn mang tính lợi ích và tínhbắt buộc thực hiện, nghĩa là mọi thành viên của cộng đồng xã hội, dù muốn haykhông muốn, đều phải tuân theo các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội. Sựtuân thủ và thực hiện các nguyên tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội trong hànhvi xã hội của mỗi người được coi là trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của người đó.Nếu đi lệch ra khỏi quỹ đạo chung này, hành vi của cá nhân đó sẽ là bất bìnhthường, sai lệch, là tội ác…Khi đó, cá nhân này sẽ bị xã hội phê phán, lên ánhoặc áp dụng các biện pháp trừng phạt theo tính chất, mức độ của hành vi.
Địnhhướng là khái niệm chủ yếusử dụng trong các lĩnh vực hoạt động, trong đó, có hoạt động quản lý nhà nước,quản lý xã hội. Trong hoạt động quản lý,định hướng là hoạt động có căn cứ, có mục đích của chủ thể quản lý, hướng sựchú ý của đối tượng tới nội dung, những vấn đè trọng tâm của sự việc, sự kiệnhay hiện tượng xã hội xảy ra trong dời sống xã hội theo mong muốn của chủ thể. Sự định hướng của chủ thể với một vấn đề xã hộiluôn luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, nó giúp cho chủthể quản lý, nắm bắt được tình hình của một vấn đề, một sự kiện xã hội; chủ độngcan thiệp, hướng dẫn quá trình vận động, phát triển của vấn đề, sự kiện xã hộisao cho phù hợp với lợi ích của xã hội nói chung, của công tác quản lý nóiriêng; tránh được những sự cố đáng tiếc xảy ra. Chuẩn mực xã hội được định hướngtheo không gian, thời gian và đối tượng chịu sự tác động của chuẩn mực xã hội.
Theokhông gian, các chuẩn mực xã hộiđược xác định có thể chỉ có giá trị, hiệu lực trong một phạm vi không gian xã hội,một khu vực địa lý nhất định; vượt ra ngoài phạm vi không gian chúng sẽ khôngcòn vai trò, tác dụng nữa.Vì thế, cần định hướng chuẩn mực xã hội sao cho phù hợpvới các lợi ích chung của xã hội, với các đặc điểm về lịch sử, kinh tế, vănhóa, lối sống, phong tục tập quán của từng khu vực địa lý nhất định.
Theothời gian, vai trò của cácchuẩn mực xã hội có thể biểu hiện khác nhau qua từng giai đoạn, thời kỳ pháttriển của xã hội. Sự định hướng chuẩn mực xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏicủa xã hội và bám sát thực tiễn xã hội trong tiến trình phát triển của xã hộilà hết sức quan trọng và cần thiết.
Theo đối tượng,có nhiều loại chuẩn mực xã hội phản ánh lợi ích vật chất, tinh thần của các đốitượng xã hội khác nhau. Sự định hướngchuẩn mực xã hội theo đối tượng đòi hỏi phải chú ý đến lợi ích của các cộng đồngngười, các nhóm xã hội khác nhau(<4>).
Các chuẩn mực xã hôi không mang tính bất biếnmà luôn ở trạng thái động. Chúng thường xuyên vận động, biến đổi và phát triểncùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Đối với mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước, mỗi nhóm xã hộiđều có hệ thống các chuẩn mực xã hội riêng tùy thuộc vào đặc điểm , tính chất củacác quan hệ xã hội có tính phổ biến, điển hình trong xã hội đó ở những giai đoạnlịch sử khác nhau.
Chuẩn mực xã hội không phải bao giờ cũng có ýnghĩa tuyệt đối, vì trong xã hội, các cộng đồng người thường có các cá nhânkhông theo chuẩn mực. Có những chuẩn mực xã hội được phổ biến, tuân thủ ở một giaicấp, dân tộc này, nhưng lại không thừa nhận ở một giai cấp, dân tộc khác. Ví dụ:mỗi cộng đồng dân tộc có những chuẩn mực phong tục tập quán riêng của mình xuấtphát từ những đặc trưng về lịch sử, địa lý, văn hóa và lối sống. Cho nên phongtục tập quán của dân tộc này có thể không được thừa nhận ở một dân tộc khác vìnó không phù hợp với truyền thống văn hóa, lối sống của họ.
Các chuẩn mực xã hội được hình thành và xuấtphát từ chính những nhu cầu của hệ thốngcác quan hệ xã hội trong xã hội.Tùy thuộc vào nội dung, tính chất của từngloại quan hệ xã hội, các chuẩn mực xã hội quy định ch các thành viên của nó nhữngcái cần phải làm, cái được phép, cái có thể, cái bị ngăn cấm trong các hành vixã hội của họ. Qua đó, các chuẩn mực xã hội thực hiện chức năng hợp nhất, tậptrung ủng hộ các quá trình hoạt động xã hội như một hệ thống các tương tác xã hộigiữa các cá nhân và các nhóm xã hội, nghĩa là quá trình hành động và hành độngđáp lạicủa một chủ thể này với một chủ thể khác. Các chuẩn mực xã hội góp phầnđiều tiết, điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo khuôn mẫu cho hành vi xã hội củacon người, duy trì sự ổn định, hài hòa trong xã hội, bảo vệ trật tự, kỷ cương,an toàn xã hội.
Chuẩn mực xã hội là yếu tố không thể thiếu đượctrong hoạt động quản lý các mặt, các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.Chúng tham gia và phát huy tác dụng trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống.Dù là chuẩn mực xã hội thành văn hay bất thành văn, dù là chuẩn mực pháp luật,chuẩn mực đạo đức hay chuẩn mực thẩm mĩ, chúng đều là phương tiện định hướng,điều chỉnh các hành vi của cá nhân và các nhóm xã hội trong những điều kiện xãhội nhất định; đồng thời, là phương tiện kiểm tra xã hội đối với các hành vi củahọ. Nhờ có các chuẩn mực xã hội mà các cá nhân luôn phải xem xét, suy nghĩ, kiểmnghiệm trước khi thực hiện một hành vi xã hội nào đó, xem hành vi đó đúng haysai, phù hợp hay không phù hợp với các chuẩn mực xã hội, nếu thực hiện thì có bịxã hội lên án hoặc trừng phạt không? Qua đó, chuẩn mực xã hội góp phần ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi sai trái,vi phạm pháp luật và tội phạm.
Xem thêm: Giới Thiệu Sqlite Android Là Gì, Hướng Dẫn Lập Trình Android Với Database Sqlite
Các chuẩn mực xã hội củng cố các hành vi, thểhiện những mối liên hệ xã hội điển hình, hành vi tiêu biểu cho tất cả các thànhviên trong xã hội, cho đa số đại biểu của giai cấp hay một nhóm xã hội nhất định,được họ tán thành và thực hiện. Với ý nghĩa đó, nhiều chuẩn mực xã hội được coilà những giá trị xã hội, chi phối rộng rãi và được tuân theo một cách phổ biến,như các giá trị pháp luật, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mĩ…
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thịtrường cùng với quá trình dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, bên cạnh nhữngthành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đã đạt được, vẫn cònnhiều vấn đề đang đặt ra, trong đó có vấn đề nhận thức, hiểu biết, tôn trọng vàthực hiện các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội nói chung, chuẩn mực pháp luật nói riêng. Tình trạng giatăng các vụ việc vi phạm pháp luật, diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm,sự lãng quên các giá trị truyền thống, sự thờ ơ, lãnh đạm trong giao tiếp xã hội…đang là những vấn đề hết sức đáng lo ngại. Ý thức pháp luật của một bộ phận độingũ cán bộ các cấp, các ngành, của tầng lớp nhân dân còn nhiều hạn chế chưatheo kịp và chưa được nâng lên tương xứng với sự đổi mới hệ thống pháp luật.Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, một số mặt trái của nó cũng đang đượcbộc lộ, như chủ nghĩa thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tha hóa về đạođức, tệ nạn xã hội; một bộ phận cán bộ, đảng viên bị thoái hóa, biến chất trướcnhững cám dỗ về lợi ích vật chất…Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảngđã nhận định: “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thốngchính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còncủa chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến”(<5>).Đến đaị hội X Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãngphí vẫn nghiêm trọng. Tội phạm và một số tệ nạ xã hội có chiều hướng tăng”(<6>). Một trong những nguyên nhân của thực trạngtrên đây là do cán bộ và người dân thiếu hiểu biết, chưa tôn trọng và thực hiệncác quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội nói chung, chuẩn mực pháp luật nóiriêng. Trong điều kiện như vậy, việc nghiên cứu, củng cố và phát huy vai trò,tác dụng của các loại chuẩn mực xã hội càng có ý nghĩa quan trọng và thiết thực(<7>).
Trong đời sống xã hội có sự hiện diện của nhiềuchuẩn mực xã hội khác nhau với tính chất, mức độ phổ biến, phạm vi tác động, điềuchỉnh và cơ chế thực hiện khác nhau. Các loại chuẩn mực xã hội có tính phổ biếnhơn cả là chuẩn mực chính trị, chuẩn mực tôn giáo, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mựcphong tục, tập quán và chuẩn mực thẩm mỹ.
Chuẩn mực chính trị phản ánh mối quan hệ giữacác giai cấp và lợi ích của mỗi giai cấp trong việc giành, bảo vệ và sử dụngchính quyền nhà nước. Chỉ có nhà nước mới là tổ chức chính trị có khả năng vàđiều kiện sử dụng công cụ pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vì vậychuẩn mực chính trị phải thông qua pháp luật để thể hiện vai trò, tác dụng vàhiệu lực của nó. Chuẩn mực chính trị thường thể hiện trong đường lối, chínhsách của chính đảng cầm quyền và thường được ghi nhận trong Hiến pháp. Từ Hiếnpháp mà các quy tắc chính trị được chế biến hóa thành pháp luật. Như vậy chuẩnmực chính trị là nguồn cơ bản góp phần xây dựng và phát triển hệ thống pháp luậtcủa một quốc gia.
Chuẩn mực chính trị trong mối quan hệ giữa cácnhà nước với nhau thường thể hiện trong các quy tắc giao tiếp, ứng xử quốc tế;trong các hiệp ước, hiệp định được kí kết giữa các nhà nước với nhau hoặc trongcác Công ước quốc tế. Như vậy, chuẩn mực chính trị là nguồn cơ bản và quan trọngđể hình thành và phát triển hệ thống pháp luật quốc tế.
Trong lịch sử nhân loại, chuẩn mực tôn giáo cóảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối nhà nước và pháp luật. Trong quá trình các tôn giáoxâm nhập, truyền bá vào các quốc gia khác nhau có thể gây nên những xung đột giữatôn giáo và chính quyền sở tại do những khác biệt về giáo lý tôn giáo và hệ thốngpháp luật của các nước. Cho nên về nguyên tắc, tôn giáo và nhà nước phải độc lậpvới nhau.
Tại các quốc gia mà chuẩn mực tôn giáo bị hiểuvà vận dụng một cách cực đoan thì ngay cả chính trị và pháp luật cũng bị đồngnhất với chuẩn mực tôn giáo.
Một số chuẩn mực tôn giáo phù hợp với thuầnphong, mĩ tục, với các giá trị đạo đước, pháp luật hiện hành có tác dụng tích cựcđối với thực hiện pháp luật của các cá nhân.
Ở nước ta hiện nay, nghiên cứu chuẩn mực tôngiáo và các tín ngưỡng cho phép nắm bắt được nguồn gốc xuất hiện, nguyên nhân tồntại và tác động của tôn giáo, tín ngưỡng tới đời sống tâm linh của con người.Đó cũng là cơ sở nhận thức về lý luận và thực tiễn để Đảng và nhà nước ta xác địnhvà thừa nhận công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theomột tôn giáo nào. Không ai được xâm phạm quyềntự do tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền đó được ghi nhận trong Hiến pháp(<8>)và được pháp luật bảo vệ. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảngđã xác định: “ Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kếtdân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tínngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáobình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồngbào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo.Phát huy những giá trị vănhóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo vàcác chức sắc tôn giáo sống tốt đời đẹp đạo.Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt độngtheo pháp luật và được pháp luật bảo vệ”(<9>).
Bên cạnh đó nhà nước ta cũng cương quyết trừngtrị nghiêm khắc các hành vi đội lốt tôn giáo để thực hiện các âm mưu chính trịđen tối , gây rối, bạo loạn, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân…(<10>)
Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp, tầng lớpkhác nhau đều có những quan niệm đạo đức của riêng mình.
Vì vậy, các quy phạm đạo đức tồn tại trong xãhội cũng có nhiều loại và chúng tác động qua lại lẫn nhau. Giai cấp thống trịvì nắm quyền lực trong tay, nên có điều kiện và ưu thế để nâng các quan niệm đạo đức của mình thành pháp luật. Trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật,các nhà làm luật xây dựng nên pháp luật như thể hiện ý chí chung của mọi tầng lớptrong xã hội.
Chuẩn mực đạo đức là chuẩn mực tinh thần để thựchiện các quy định của pháp luật. Trong nhiều trường hợp, các cá nhân trong xã hộithực hiện một hành vi pháp luật hợp pháp không phải vì họ hiểu các quy định củapháp luật mà hoàn toàn xuất phát từ các quy tắc đạo đức.Nhiều quy tắc đạo đứcđược nhà nước sử dụng và nâng lên thànhquy phạm pháp luật. Khi xây dựng và ban hành pháp luật, nhà nước không thểkhông tính tới các quy tắc của chuẩn mực đạo đức. Ví dụ: “ Tội không tố giác tộiphạm” ( điều 314 BLHS năm 1999) nếu tội phạm đó không phải là tội xâm phạm anninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng thì nhà nước không truy cứu tráchnhiệm hình sự đối với ông bà, cha mẹ, con cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồngcủa người phạm tội vì không ai muốn người thân của mình dính lứu vào vòng tù tội.
Chuẩn mực phong tục, tập quán và pháp luật cómối quan hệ hữu cơ với nhau. Nhiều phong tục, tập quán trở thành luật tục, ănsâu, bén rễ rất bền chặt trong nhân dân và có sức mạnh hơn cả những đạo luật.Khi nhà nước xuất hiện, nhà nước đã tìm cách vận dụng những phong tục tập quánđể phục vụ cho lợi ích của mình, thay đổi nội dung của chúng cho phù hợp, thừanhận và nâng cấp chúng thành các quy phạm pháp luật hoặc coi chúng là tập quánpháp. Như vậy, chuẩn mực phong tục, tập quán là nguồn quan trọng để hình thànhpháp luật.
Đối với các phong tục, tập quán có giá trịtruyền thống, mang tính nhân văn sâu sắc,… có tác động tích cực đối với cộng đồngxã hội thì pháp luật cần thừa nhận, củng cố và phát huy(<11>).
Còn những phong tục tập quán đã lạc hậu, lỗithời đã trở thành hủ tục thì bên cạnh việc tuyên truyền để nhân dân nhận thứcđược và tự giác loại bỏ thì nhà nước cần phải dùng đến sức mạnh cưỡng chế củapháp luật nhằm loại bỏ chúng ra khỏi đời sống xã hội.
Chuẩn mực thẩm mỹ tác động trong hầu hết cáclĩnh vực quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ pháp luật, điều chỉnh hành vi thẩmmỹ của con người phù hợp với các quan điểm, quan niệm trong xã hội về cái đẹp,cái xấu, cái cao cả… Chuẩn mực thẩm mỹ đòi hỏi các bộ luật, đạo luật được banhành phải phù hợp với các giá trị, chuẩn mực thẩm mỹ đang phổ biến trong xã hộithì mới dễ dàng được nhân dân tuân thủ và thực hiện. Khi đó, bản thân các bộ luậtđạo luật cũng mang các giá trị thẩm mỹ, là một “tác phẩm nghệ thuật”. Nhiều quytắc, yêu cầu của chuẩn mực thẩm mỹ, do phù hợp và đáp ứng được nhu cầu, lợi íchcủa nhà nước về tổ chức, quản lý xã hội, đã được nhà nước thừa nhận và vận dụngtrong các đạo luật. Các văn bản luật của nhà nước điều chỉnh các lĩnh vực vănhóa, văn nghệ, trật tự công cộng … là những minh chứng cho mối liên hệ này. Nhưvậy, chuẩn mực thẩm mỹ là cơ sở lý luận và thực tiễn để nhà nước xây dựng vàban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực xây dựng, quy hoạch đôthị, văn hóa – nghệ thuật, quảng cáo, du lịch, bảo tồn di sản văn hóa, thờitrang…
Chuẩn mực thẩm mỹ có tác dụng định hướng, điềuchỉnh hành vi pháp luật của các cá nhân phù hợp với các quy tắc, yêu cầu củachuẩn mực thẩm mỹ. Trong nhiều trường hợp vì những lý do nhất định, các cá nhânkhông biết đến quy định của pháp luật, nhưng do các quy tắc pháp luật phù hợp vớicác chuẩn mực thẩm mỹ, các cá nhân thực hiện hành vi pháp luật dựa trên cácquan điểm, quan niệm thẩm mỹ của họ(<12>).
Xem thêm: ” Wordnet Là Gì Trong Tiếng Việt? Xây Dựng Wordnet Cho Tiếng Việt
Trong xã hội ngày nay, chuẩn mực xã hội đóngvai trò không hề nhỏ trong đời sống của các cộng đồng người, mỗi địa phương, mỗidân tộc giúp xây dựng và phát triển một xã hội lành mạnh, tiến bộ hơn. Bên cạnhđó chuẩn mực xã hội này, còn có vai trò rất lớn đối với việc ban hành và thựcthi pháp luật. Vì vậy, phải phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cácchuẩn mực xã hội để chuẩn mực xã hội phù hợp hơn với các chính sách phát triểnkinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Có như vậy thì đất nước mới ngày mộtphát triển bền vững.