Vắc xin là chế phẩm sinh học có tính kháng nguyên, có nguồn gốc từ vi sinh vật (có thể toàn thân hoặc một phần hoặc có cấu trúc tương tự) dùng để tạo miễn dịch đặc hiệu chủ động, nhằm tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một số tác nhân gây bệnh cụ thể.

*

Edward Jenner

(1749-1823)

Bằng chứng của việc thực hành tiêm chủng có từ nhiều trăm năm trước là các nhà sư Ấn Độ đã uống nọc rắn tạo miễn dịch cơ thể không bị chết sau khi rắn cắn và tại Trung Quốc đã bôi dịch mụn trên da của người bị bệnh đậu mùa để gây miễn dịch chống lại bệnh đậu. Người tìm ra nguyên lý sử dụng vắc xin đầu tiên là Bác sỹ người Anh Edward Jenner vào năm 1796, sau khi ông tiêm cho bé trai 13 tuổi vảy vi rút đậu bò (vacca theo tiếng Latinh) để phòng bệnh đậu mùa.Vào năm 1798 vắc xin chủng ngừa bệnh đậu mùa đầu tiên đã được phát triển.

Đang xem: Vacxin sống là gì, viện kiểm Định quốc gia vắc xin và sinh phẩm y tế

Qua thế kỷ XVIII và XIX với việc triển khai thực hiện công tác tiêm chủng phòng đậu mùa đồng bộ và nhiều quốc gia tham dự nên năm 1979 bệnh đậu mùa đã được thanh toán trên toàn cầu.

Kế thừa nền tảng khoa học mà Edward Jenner để lại từ cuối thế kỷ 18 và thế kỷ 19 Louis Pasteur, người pháp đã kế thừa và phát minh ra nhiều loại vắc xin như vắcxin phòng bệnh tả và vắcxin phòng bệnh Than vào năm 1897-1904, tiếp theo vắcxin phòng bệnh dịch hạch và vắc xin phòng bệnh Lao Bacillis-Calmette-Guerin (BCG) được phát minh những năm 1950. Vắcxin rất quan trọng khác là vắc xin phòng bệnh Ho gà toàn tế bào được giới thiệu vào năm 1948. Giai đoạn tiếp theo 1950-1985 là giai đoạn nghiên cứu và phát triển các vắc xin vi rút như vắc xin phòng bệnh Dại và bệnh Bại liệt uống (sabin). Tiếp theo là sự ra đời của các văc xin vi rút khác như Sởi, Quai bị và Rubella.

Các mốc lịch sử của quá trình phát triển Vắc xin

– 1798: Vắc xin phòng bệnh Đậu mùa của Jenner

– 1885: Vắc xin phòng bệnh Dại và Tả của Pasteur và Haffkine

– 1891: Vắc xin phòng bệnh Than của Pasteur

– 1896: Vắc xin Thương hàn của Wright

– 1897: Vắc xin phòng bệnh Dịch hạch (Plague) của Yersin

– 1921: Vắc xin phòng bệnh Lao-BCG của Calmette và Guerin

– 1923: Vắc xin phòng bệnh Bạch hầu của Ramon và Clenny

– 1923: Vắc xin phòng bệnh Ho gà của Madsen

– 1927: Vắc xin phòng bệnh Uốn ván của Ramon và Zoeller

– 1935: Vắc xin phòng bệnh Sốt vàng (Yellow Fever) của Sellard và Laigret

– 1937: Vắc xin phòng Cúm bất hoạt đầu tiên của Salk

– 1949: Vắc xin phòng bệnh Quai bị sống giảm độc lực của Smorodintsev

– 1954: Vắc xin phòng bệnh Bại liệt bất hoạt của Salk

– 1957: Vắc xin phòng bệnh Bại liệt sống giảm độc lực uống của Sabin (OPV)

– 1960: Vắc xin phòng bệnh Sởi của Ender và Scharz

– 1967: Vắc xin phòng Quai bị của Weibeh và Buynach và Takahashi

– 1967: Vắc xin phòng bệnh Dại từ tế bào lưỡng bội người của Viktor

– 1973: Vắc xin phòng bệnh Thủy đậu của Takahashi

– 1976: Vắc xin phòng Viêm gan B của Maupas và Hillemann

– 1968: Vắc xin phòng viêm màng não do cầu khuẩn Meningitis C của Gotschlich C

– 1971: Vắc xin phòng viêm màng não do cầu khuẩn Meningitis A của Gotschlich A

– 1972: Vắc xin phòng bệnh viêm phổi do Heamophilus influenza (HiB)

– 1976: Vắc xin phòng bệnh viêm phổi do cầu khuẩn Pneumococcal

– 1981: Vắc xin phòng bệnh viêm gan B tái tổ hợp

– 1984: Vắc xin phòng bệnh Thương hàn Vi polyshaccaride

– 1986: Vắc xin phòng bệnh viêm màng não do cầu khuẩn Meningitis B

– 1989: Vắc xin phòng bệnh viêm gan siêu vi A

– 1995: Vắc xin phòng Zona thần kinh do virus Varicella Zoter

– 1998: Vắc xin phòng ỉa chảy do Rotavirus

– 1999: Vắc xin phòng bệnh viêm màng não do cầu khuẩn Meningitis C cộng hợp (conjugate)

– 2000: Vắc xin phòng bệnh viêm phổi do cầu khuẩn Pneumococcal cộng hợp (conjugate)

– 2006: Vắc xin phòng bệnh ung thư cổ tử cung do virus HPV (human Papiloma Virus)

– 2015: Vắc xin phòng bệnh sốt xuất huyết (Dengue)

Các vắc xin đang nghiên cứu và đưa vào sử dụng trong thời gian tới

– Vắc xin Herpes

– Vắc xin cytomegalovirus

– Vắc xin sốt rét

– Vắc xin toxoplasma

– Vắc xin phòng sâu răng

– Vắc xin Leptospira

– Vắc xin Ho gà vô bào (aP)

– Vắc xin phòng bệnh chân tay miệng do virus EV71

– Vắc xin phòng AIDS

– Vắc xin phòng bệnh lao BCG tái tổ hợp (DNA recombinate)

– Vắc xin phòng bệnh hội chứng đường hô hấp

II. BẢN CHẤT VÀ NGUYÊN LÝ SỬ DỤNG VẮC XIN

2.1.Bản chất vắc xin:

Vắc xin là chế phẩm sinh học có tính kháng nguyên, có nguồn gốc từ vi sinh vật (có thể toàn thân hoặc một phần hoặc có cấu trúc tương tự) dùng để tạo miễn dịch đặc hiệu chủ động, nhằm tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một số tác nhân gây bệnh cụ thể.

2.2. Nguyên lý sử dụng:

Sử dụng vắc xin là đưa vào cơ thể kháng nguyên có nguồn gốc từ vi sinh vật (VSV) gây bệnh hoặc VSV có cấu trúc kháng nguyên giống VSV gây bệnh, đã được bào chế đảm bảo độ an toàn cần thiết, làm cho cơ thể tự tạo ra tình trạng miễn dịch chống lại tác nhân gây bệnh. Nói một cách khác: sử dụng vắc xin là tạo miễn dịch chủ động nhân tạo. Sự bảo vệ hình thành nhờ sự đáp ứng miễn dịch vừa dịch thể (globulin miễn dịch đặc hiệu nhất là IgG, có thể IgA và IgM), vừa trung gian tế bào (đại thực bào và tế bào lympho).

Cường độ và hiệu quả của sự đáp ứng miễn dịch biến thiên theo:

– Vắc xin: Tính chất và hàm lượng của kháng nguyên, những chất phụ gia miễn dịch, thường sử dụng là những muối kim loại: Al hoặc Ca có thể tăng cường sự đáp ứng của một vài vắc xin bất hoạt.

– Vật chủ: Tuổi là một nhân tố quan trọng. Trẻ sơ sinh cần ít tháng để đạt sự trưởng thành miễn dịch (dịch thể), ngoài ra kháng thể từ sữa mẹ có thể đóng vai trò ngăn ngừa bệnh nhiễm trùng. Ngược lại sự đáp ứng miễn dịch giảm dần với tuổi nhưng không biến mất ở người lớn tuổi. Những nhân tố di truyền, còn chưa biết rõ cũng ảnh hưởng đến cường độ của sự đáp ứng miễn dịch. Cuối cùng là một vài nhân tố làm suy giảm sự đáp ứng miễn dịch, chúng có thể do di truyền như không có g globulin huyết, giảm sút tế bào miễn dịch hoặc do mắc phải như trong bệnh u ác tính, điều trị giảm miễn dịch, suy dinh dưỡng…

2.3. Đặc tính cơ bản của vắc xin:

– Tính kháng nguyên đặc thù: Là khả năng kích thích cơ thể tạo thành kháng thể. Kháng nguyên mạnh là kháng nguyên khi đưa vào cơ thể một lần đã sinh ra nhiều kháng thể. Kháng nguyên yếu là những chất phải đưa vào nhiều hoặc phải kèm theo một tá dược mới sinh được một ít kháng thể.

– Tính sinh miễn dịch: Vắc xin gây miễn dịch bằng một vi khuẩn hoặc vi rút giảm độc lực, hoặc với một loại protein đặc hiệu có tính kháng nguyên để gây ra một đáp ứng miễn dịch tạo ra hiệu quả đề kháng cho cơ thể về sau khi tác nhân gây bệnh xâm nhập với đầy đủ độc tính.

2.4. Phân loại vắc xin:

– Vắc xin sống giảm độc lực: Là những tác nhân nhiễm trùng tự nhiên, được làm giảm độc một cách nhân tạo ở phòng thí nghiệm. Vắc xin đậu mùa là loại vắc xin đầu tiên trong lịch sử, là một vi rút động vật (đậu bò) có khả năng đem lại sự bảo vệ chéo chống lại virus đậu mùa mà nó rất gần gũi. Phần lớn những vắc xin sống hiện có là những vaccine vi rút: Vắc xin sốt vàng, vắc xin bại liệt, sởi, rubella, quai bị. Một vắc xinvi khuẩn sống thường sử dụng là BCG. Đối với vắc xin sống, sự chủng ngừa thường một lần, gây nên sự nhiễm trùng nhẹ hoặc không biểu hiện, sự nhân lên của vi rút trong cơ thể gây nên miễn dịch thườnglâu bền, tương đương với sự miễn dịch do sự nhiễm trùng tự nhiên.Những thuận lợi của vắc xin sống là tiện lợi (tiêm 1 lần), giá thành thường rẻ. Điều bất tiện là có thể đem lại nguy cơ nhiễm trùng (phản ứng và biến chứng).

– Vắc xin chết: Là những chế phẩm kháng nguyên đã mất khả năng nhiễm trùng nhưng còn bảo tồn tính chất gây miễn dịch. Người ta phân biệt:

+ Vắc xin chết toàn thể: Loại vắc xin này chứa tất cả các thành phần của tác nhân nhiễm trùng, giết chết bằng nhiệt, formol hoặc b-propiolacton, bao gồm vắc xin vi khuẩn như ho gà, thương hàn TAB, tả uống hoặc vắc xin vi rút như cúm, bại liệt, dại….

+ Vắc xin giải độc tố: Những vắc xin này chết nhưng chỉ chứa kháng nguyên tinh chế: Loại vắc xin này chỉ bao gồm thành phần kháng nguyên quan trọng nhất về phương diện sinh miễn dịch của vi khuẩn hoặc vi rút được tinh khiết và làm bất hoạt. Ví dụ như vắc xin chứa giải độc tố vi khuẩn bản chất protein (vắc xin uốn ván, vắc xin bạch hầu)

– Vắc xin tách chiết (vắc xin dưới đơn vị) là vắc xin công nghệ cao, loại chỉ tách lấy một phần vách (vỏ) chứa thành phần kháng nguyên đặc thù Polysaccharide của vi khuẩn (vắc xin não mô cầu, vắc xin phế cầu), vắc xin chứa thành phần kháng nguyên vi rút (vắc xin vi rút viêm gan B được điều chế từ HBsAg có trong huyết tương những người nhiễm kháng nguyên này). Những vắc xin chết có ưu điểm không có nguy cơ nhiễm trùng. Những bất lợi bao gồm: giá thành thường cao, nguy cơ mẫn cảm, một lịch chủng ngừa nhiều lần và lặp lại.

– Vắc xin tái tổ hợp (vắc xin công nghệ mới): Là những vắc xin được sản xuất dựa vào kỹ thuật di truyền và công nghệ gen, như vắc xin viêm gan B tái tổ hợp.

III. NGUYÊN TẮC SỬ DỤNG VẮC XIN:

Việc sử dụng vắc xin phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

– Tiêm chủng trên phạm vi rộng, đạt tỷ lệ cao.

– Tiêm chủng đúng đối tượng.

– Bắt đầu tiêm chủng đúng lúc, bảo đảm đúng khoảng cách giữa các lần tiêm chủng, tiêm chủng nhắc lại đúng thời gian.

– Tiêm chủng đúng đường và đúng liềulượng.

– Nắm vững phương pháp phòng và xử trí các phản ứng không mong muốn do tiêm chủng.

– Bảo quản vắc xin đúng quy định.

3.1. Phạm vi và tỷ lệ tiêm chủng

3.1.1. Phạm vi tiêm chủng:

Phạm vi tiêm chủng được quy định tuỳ theo tình hình dịch tễ của từng bệnh. Phạm vi tiêm chủng đương nhiên không giống nhau giữa các nước. Ngay cả các khu vực trong một nước cũng có thể có sự khác nhau. Những quy định này lại có thể thay đổi theo thời gian do sự thay đổi về dịch tễ học của bệnh nhiễm trùng. Về lý thuyết, người ta thường nói tiêm chủng càng rộng càng tốt. Thực tế thì không thể thực hiện được điều đó vì nhưng lý do sau đây: thứ nhất, sẽ rất tốn kém (chi phí cho việc mua hoặc sản xuất vắc xin và cho việc tổ chức tiêm chủng): thứ hai, các phản ứng không mong muốn do tiêm vắc xin vẫn xảy ra dù với tỷ lệ thấp.

3.1.2. Tỷ lệ tiêm chủng:

Những khu vực có lưu hành bệnh truyền nhiễm, tiêm chủng phải đạt trên 80% đối tượng chưa có miễn dịch mới có khả năng ngăn ngừa được dịch. Nếu tỷ lệ tiêm chủng chỉ đạt trong khoảng 50 đến 80%, nguy cơ xảy ra dịch chỉ giảm bớt. Nếu tỷ lệ tiêm chủng dưới 50% dịch vẫn dễ dàng xảy ra.

3.2. Đối tượng tiêm chủng

Đối tượng cần được tiêm chủng một loại vắc xinnào đó là tất cả những người có nguy cơ nhiễm vi sinh vật gây bệnh mà chưa có miễn dịch.

Xem thêm:

– Trẻ em là đối tượng cần được đặc biệt quan tâm. Sau khi hết miễn dịch thụ động do mẹ truyền (trong thời gian khoảng 6 tháng), nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng của trẻ rất lớn. Mặt khác miễn dịch thụ động nhờ kháng thể truyền qua rau thai hoặc qua sữa chỉ có đối với những bệnh mà cơ chế bảo vệ chủ yếu là do miễn dịch dịch thể. Đối với những bệnh nhiễm trùng mà cơ chế bảo vệ là miễn dịch qua trung gian tế bào thì trẻ có thể bị bệnh ngay từ những tháng đầu tiên sau khi sinh. Những hiểu biết này là cơ sở cho việc quy định thời điểm bắt đầu tiêm chủng cho trẻ em. Trừ những đối tượng chống chỉ định, tất cả trẻ em đều phải được tiêm chủng.

– Đối với người lớn, đối tượng tiêm chủng thu hẹp hơn. Thường chỉ tiến hành tiêm chủng cho những nhóm người có nguy cơ cao. Những người đi du lịch đến các vùng dịch tể cần phải được tiêm chủng.Trong những năm gần đây, để phòng bệnh uốn ván sơ sinh, phụ nữ ở lứa tuổi sinh đẻ được tiêm phòng uốn ván.Diện chống chỉ định tiêm chủng có hướng dẫn riêng cho mỗi vắc xin.

Nói chung không được tiêm chủng cho các đối tượng sau đây:

– Những người đangbị sốt cao. Những trường hợp đang bị nhiễm trùng nhẹkhông sốt hoặc chỉ sốt nhẹ thì không cần phải hoãn tiêm chủng.

– Những người đang ở trong tình trạng dị ứng. Những người có cơ địa dị ứng hoặc có lịch sử gia đình bị dị ứng vẫn tiêm chủng được, nhưng cần phải theo dõi cẩn thận hơn.

– Vắc xin sống giảm độc lực không được tiêm chủng cho những người bị thiếu hụt miễn dịch, những người đang dùng thuốc ức chế miễn dịch hoặc những người mắc bệnh ác tính.

-Tất cả các loại vắc xin vi rút sống giảm độc lực không được tiêm cho phụ nữ đang mang thai.

3.3. Thời gian tiêm chủng

Việc tiêm chủng được tiến hành thường xuyên hoặc tập trung tiêm chủng hàng loạt tuỳ thuộc vào yêu cầu của mỗi loại vắc xin và các điều kiện cụ thể khác.

– Thời điểm tổ chức tiêm chủng: Khi đã xác định được quy luật xuất hiện dịch, cần phải tiến hành tiêm chủng đón trước mùa dịch, để cơ thể có đủ thời gian hình thành miễn dịch. Đối với vaccine được tiêm chủng lần đầu, thời gian tiềm tàng kéo dài từ 24 giờ (trung bình khoảng 1 tuần), tuỳ thuộc vào bản chất vắc xin và tính phản ứng của cơ thể. Hiệu giá kháng thể đạt được đỉnh cao nhất sau khoảng 4 ngày đến 4 tuần (trung bình 2 tuần). Đó là kết quả của đáp ứng tiên phát. Khi tiêm chủng nhắc lại, thời gian tiềm tàng sẽ rút ngắn, hiệu giá kháng thể đạt được đỉnh cao nhất chỉ sau một số ngày nhờ những tế bào lympho có trí nhớ miễn dịch. Đó là kết quả của đáp ứng miễn dịch thứ phát.

– Khoảng cách giữa các lần tiêm chủng: Đối với những vắc xin phải tiêm chủng nhiều lần (khi tạo miễn dịch cơ bản), khoảng cách hợp lý giữa các lần tiêm chủng là 1 tháng. Nếu khoảng cách này ngắn hơn, mặc dù tiêm chủng lần sau nhưng kết quả đáp ứng của cơ thể vẫn chỉ như tiên phát, đáp ứng miễn dịch thứ phát sẽ không có hoặc bị hạn chế. Ngược lại vì một lý do nào đó phải tiêm chủng lần tiếp theo sau hơn 1 tháng, hiệu quả miễn dịch vẫn được đảm bảo, vì vậy lần tiêm chủng trước vẫn được tính. Tuy nhiên không nên kéo dài việc tiêm chủng nếu không có những lý do bắt buộc, vì trẻ có thể bị măc bệnh trước khi được tiêm chủng đầy đủ.

– Thời gian tiêm chủng nhắc lại: Thời gian tiêm chủng nhắc lại tuỳ thuộc vào thời gian duy trì được tình trạng miễn dịch có đủ hiệu lực bảo vệ của mỗi loại vắc xin. Thời gian này khác nhau đối với các loại vắc xin khác nhau. Khi tiêm chủng nhắc lại thường chỉ cần 1 lần.Với lần tăng cường này, cơ thể sẽ đáp ứng miễn dịch nhanh và mạnh hơn, cho dù kháng thể của lần tiêm chủng trước chỉ còn lại rất ít.

3.4. Liều lượng và đường đưa vắc xin vào cơ thể

Liều lượng: Liều lượng vắc xin tuỳ thuộc vào loại vắc xin và đường vào cơ thể. Liều lượng quá thấp sẽ không đủ khả năng kích thích cơ thể đáp ứng miễn dịch. Ngược lại, liều lượng quá lớn sẽ dẫn đến tình trạng dung nạp đặc hiệu đối với lần tiêm chủng tiếp theo.

Đường tiêm chủng: Mỗi loại vắc xin đòi hỏi một cách thức chủng ngừa thích hợp. Người ta sử dụng nhiều phương pháp chủng ngừa:

– Chủng (rạch da): đây là đường cổ điển nhất, được thực hiện ngay từ lúc Jenner sáng chế ra vắc xin phòng bệnh đậu mùa. Đối với vắc xin này, đường chủng vẫn được dùng cho đến khi bệnh đậu mùa bị tiêu diệt hoàn toàn trên hành tinh của chúng ta (1979), không cần phải chủng đậu nữa. Ngày nay đường chủng vẫn còn được sử dụng cho một số ít vắc xin (BCG, dịch hạch).

– Đường tiêm: có thể tiêm trong da, tiêm dưới da hoặc tiêm bắp, không bao giờ tiêm vắc xin vào đường tĩnh mạch. Đa số các vắc xin có thể tiêm dưới da, chỉ một số vắc xin không cho phép sử dụng cách chủng ngừa này, BCG phải tiêm trong da, tiêm dưới da thường hay gây loét. Phương pháp tiêm trong da có nhiều ưu điểm: chỉ cần một lượng vắc xin tương đối nhỏ (0,1ml), ít gây phản ứng, hiệu ứng miễn dịch không kém gì phương pháp tiêm dưới da. Tiêm trong da có thể được thực hiện bằng bơm kim tiêm hoặc bằng bơm nén áp lực không kim, phương pháp này giúp việc tiêm chủng nhanh chóng dễ thực hiện với quy mô rộng rãi, nhưng cần lưu ý đúng kỹ thuật.

– Đường uống: Đường uống là đường đưa vắc xin vào cơ thể dễ thực hiện nhất. Tuy nhiên chỉ thực hiện được đối với những vắc xin không bị dịch đường tiêu hoá phá huỷ. Sự hiểu biết tốt hơn về vai trò của miễn dịch tại chỗ do IgA tiết, những vắc xin phòng nhiễm trùng đường tiêu hoá hoặc nhiếm trùng ở nơi khác nhưng vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể theo đường tiêu hoá đã được sử dụng (như vắc xin bại liệt) hoặc đang được nghiên cứu đưa vào cơ thể bằng cách uống. Đường uốnglợi điểm là kích thích miễn dịch tại chỗ mạnh hơn nhiều so với đường tiêm, nhưng đường uống không bảo đảm sự cố định của vi rút trong vắc xin, cho nên uống 3 lần liên tiếp vắc xin bại liệt được xem như cần thiết để tạo thành miễn dịch.

– Ngậm dưới lưỡi: hiện nay đã có một số vắc xin đường ruột điều chế dưới dạng viên để ngậm dưới lưỡi. Cần phải có một liều lượng kháng nguyên cao mới bảo đảm tác dụng gây miễn dịch.

– Nhỏ mũi: Được sử dụng rộng rãi cho vắc xincúm.

– Ngoài ra vắc xincòn được đưa vào cơ thể theo một số đường khác như khí dung, thụt đại tràng, những đường này ít được sử dụng.

3.5. Các phản ứng phụ do tiêm chủng

Về nguyên tắc, vắc xin phải đảm bảo đủ độ an toàn. Song trên thực tế không thể đạt được mức độ an toàn tuyệt đối. Tất cả các vắc xin đều có thể gây ra phản ứng phụ ở một số người.

– Phản ứng tại chỗ: Những phản ứng nhẹ thường gặp sau tiêm chủng là nơi tiêm có thể hơi đau, mẩn đỏ, hơi sưng hoặc nổi cục nhỏ. Những phản ứng này sẽ mất đi nhanh chóng sau một vài ngày, không cần phải can thiệp gì. Nếu tiêm chủng không đảm bảo vô trùng, thì nơi tiêm chủng có thể bị viêm nhiễm, làm mủ.

-Phản ứng toàn thân: Trong các phản ứng toàn thân, sốt hay gặp hơn cả (10-20%). Sốt thường hết nhanh sau một vài ngày. Co giật có thể gặp nhưng với tỷ lệ rất thấp (1/10.000), hầu hết khỏi không để lại di chứng gì. Một số vắc xin có thể gây ra phản ứng nguy hiểm hơn, trong đó có sốc phản vệ nhưng tỷ lệ rất thấp. Khi bàn đến những phản ứng do vắc xin, rất cần thiết phải nhấn mạnh rằng mức độ nguy hiểm do vắc xin nhỏ hơn rất nhiều so với mức độ nguy hiểm do bệnh nhiễm trùng tương ứng gây ra. Thí dụ, tỷ lệ biến chứng nguy hiểm do bệnh ho gà gấp hàng trăm đến hàng nghìn lần phản ứng nguy hiểm do vắc xin bạch hầu – ho gà – uốn ván (vắc xin DPT) gây ra.

3.6. Bảo quản vắc xin

Vắc xin rất dễ bị hỏng nếu không được bảo quản đúng. Chất lượng vắc xin ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực tạo miễn dịch, vì vậy các vắc xin cần phải được bảo quản tốt ngay từ lúc nó được sản xuất cho tới khi được tiêm chủng vào cơ thể. Thường quy bảo quản các vắc xin không giống nhau, nhưng nói chung các vắc xin đều cần được bảo quản trong điều kiện khô, tối và lạnh.

Xem thêm: ” Trục Tung Là Gì – Nghĩa Của Từ Trục Tung

Nhiệt và ánh sáng phá huỷ tất cả các loại vắc xin, nhất là những vắc xin sống như vắc xinsởi, bại liệt và vắc xinBCG sống. Ngược lại, đông lạnh phá huỷ nhanh các vắc xingiải độc tố (như vắc xin phòng uốn ván và bạch hầu). Trong quá trình sử dụng ở cộng đồng, các vắc xin cần được bảo quản ở nhiệt độ trong khoảng từ 20C đến 80C. Một trong những công việc quan trọng nhất trong việc tổ chức tiêm chủng là tạo lập được dây chuyền lạnh. Dây chuyền lạnh không đơn thuần là có các nhà lạnh, tủ lạnh, các phích đá hoặc các hộp cách nhiệt mà còn phải lưu ý cả những khâu trung gian trong quá trình vận chuyển vắc xinvà tiến hành tiêm chủng. Vắc xinnếu đã bị phá huỷ dù có được bảo quản lại ở điều kiện thích hợp cũng không thể có hiệu lực trở lại, cũng không có tác dụng nữa, phải loại bỏ.

IV. CẬP NHẬT CÁC LOẠI VẮC XIN CHO CHƯƠNG TRÌNH TIÊM CHỦNG MỞ RỘNG QUỐC GIA

*

ThS.BS. Đoàn Hữu Thiển, Viện trưởng Viện Kiểm định Quốc gia Vắc xin và Sinh phẩm y tế

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *